Thủ tướng Phạm Minh Chính lên đường dự Hội nghị cấp cao ASEAN - Nhật Bản

Nhận lời mời của Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio, sáng 15/12, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam lên đường dự Hội nghị cấp cao kỷ niệm 50 năm quan hệ ASEAN - Nhật Bản và tiến hành các hoạt động song phương tại Nhật Bản từ ngày 15 - 18/12/2023.

Thủ tướng Phạm Minh Chính lên đường dự Hội nghị cấp cao ASEAN-Nhật Bản. 

Tháp tùng Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính có: Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung; Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng; Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan; Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thắng; Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn; Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh; Thứ trưởng Bộ Công an Lê Quốc Hùng; Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Phạm Hoài Nam; Phó Chánh văn phòng Trung ương Đảng Lê Khánh Toàn; Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đỗ Hùng Việt; Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Thành.

Sau 50 năm, quan hệ ASEAN - Nhật Bản phát triển toàn diện, năng động trên tất cả lĩnh vực: Chính trị, an ninh, kinh tế, thương mại, đầu tư, văn hóa, xã hội và hợp tác phát triển. Nhật Bản tham gia sâu rộng vào các tiến trình hợp tác chính trị-an ninh khu vực; ủng hộ đoàn kết, thống nhất và vai trò trung tâm của ASEAN. Quan hệ ASEAN - Nhật Bản phát triển sâu rộng trên mọi lĩnh vực, cả về chính trị - an ninh, kinh tế lẫn văn hóa-xã hội. Hai bên đang tiếp tục triển khai thực hiện Kế hoạch hành động (sửa đổi) thực hiện Tuyên bố Tầm nhìn về Quan hệ hữu nghị và hợp tác ASEAN - Nhật Bản được thông qua năm 2017.

ASEAN - Nhật Bản hợp tác thông qua các cơ chế chính thức như: Hội nghị Cấp cao, Bộ trưởng Ngoại giao, Quan chức cao cấp (SOM), Ủy ban hợp tác chung (JCC – cấp Đại sứ).

Nhật Bản cũng là đối tác tích cực tham gia các cơ chế do ASEAN dẫn dắt như: Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS), Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF); và một số cơ chế chuyên ngành khác như Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng (ADMM+); Diễn đàn Thứ trưởng Quốc phòng; Hội nghị các quan chức cao cấp ASEAN về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia (SOMTC); Đối thoại ASEAN - Nhật Bản về phòng chống khủng bố; Tham vấn Bộ trưởng Kinh tế và Quan chức cao cấp kinh tế (SEOM); và các cơ chế đối thoại cấp Bộ trưởng, SOM và cấp làm việc trong các lĩnh vực chuyên ngành như vận tải, an ninh mạng…

Việt Nam đã đảm nhiệm vai trò nước điều phối quan hệ đối thoại ASEAN-Nhật Bản trong 3 năm từ tháng 8/2018 - 8/2021.

Hội nghị Cấp cao kỷ niệm 50 năm quan hệ ASEAN-Nhật Bản tại Tokyo từ ngày 16-18/12/2023 là dịp đặc biệt quan trọng; diễn ra vào dịp kỷ niệm 50 năm quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai bên. Dự kiến các lãnh đạo ASEAN và Nhật Bản sẽ kiểm điểm lại quá trình hợp tác 50 năm qua, từ đó đề ra tầm nhìn và định hướng phát triển quan hệ trong giai đoạn mới. Dự kiến, Hội nghị sẽ thông qua 02 văn kiện gồm: “Tuyên bố Tầm nhìn về Quan hệ Hữu nghị và Hợp tác ASEAN - Nhật Bản: Đối tác tin cậy” và “Kế hoạch triển khai Tuyên bố tầm nhìn về Quan hệ Hữu nghị và Hợp tác ASEAN - Nhật Bản: Đối tác tin cậy”; nhằm cụ thể hóa những kết quả trao đổi của các nhà lãnh đạo tại Hội nghị. 

Nhật Bản đã tham gia sâu rộng vào các tiến trình hợp tác chính trị - an ninh khu vực, là một trong những đối tác cùng ASEAN sáng lập các diễn đàn như: Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Cấp cao Đông Á (EAS), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN Mở rộng (ADMM Plus)…; ủng hộ đoàn kết, thống nhất và vai trò trung tâm của ASEAN; chủ động, đề xuất nhiều sáng kiến hợp tác phòng chống khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia, hợp tác an ninh biển, an ninh mạng, tội phạm kinh tế…

Nhật Bản là đối tác thương mại và đầu tư quan trọng của ASEAN, là đối tác thương mại lớn thứ 4 và đầu tư FDI đứng thứ 2 của ASEAN trong năm 2022. Hợp tác kinh tế đầu tư giữa ASEAN và Nhật Bản được triển khai qua nhiều cơ chế/khuôn khổ khác nhau, trong đó có Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) và Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP). Nhật Bản cũng là đối tác tích cực đóng góp cho triển khai Sáng kiến Hội nhập ASEAN (IAI) và hỗ trợ thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN.

Nhật Bản hiện có nhiều dự án hỗ trợ thực chất cho ASEAN trong các lĩnh vực như giao lưu nhân dân, biến đổi khí hậu, quản lý thiên tai, y tế và phòng chống dịch bệnh, già hóa dân số, trong đó tài trợ thực hiện Chương trình mạng lưới trao đổi thanh niên và sinh viên Nhật Bản-Đông Á (JENESYS); hỗ trợ y tế cộng đồng ASEAN thông qua Sáng kiến Y tế ASEAN-Nhật Bản; cam kết ứng phó với các thách thức xuyên biên giới và toàn cầu như biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường, quản lý thiên tai, y tế và phòng chống dịch bệnh.

Nhật Bản là một trong những đối tác quan trọng hỗ trợ ASEAN xây dựng cộng đồng và hội nhập khu vực thông qua Quỹ Hội nhập Nhật Bản-ASEAN (JAIF). Tháng 5/2019, ASEAN và Nhật Bản cũng đã ký Hiệp định Hợp tác Kỹ thuật ASEAN-Nhật Bản (TCA) nhằm tạo điều kiện cho Nhật Bản hỗ trợ tốt hơn cho hợp tác phát triển cho toàn khu vực ASEAN.

Hợp tác ứng phó COVID-19 và thúc đẩy phục hồi: Hai bên ủng hộ phối hợp duy trì đà hợp tác, nhất là tập trung kiểm soát dịch bệnh, bảo đảm chuỗi cung ứng thương mại và đầu tư và thúc đẩy phục hồi. Nhật dành 50 triệu USD hỗ trợ ASEAN thành lập Trung tâm ASEAN ứng phó các tình huống y tế khẩn cấp và dịch bệnh mới nổi (AC-PHEED), đồng thời khẳng định tiếp tục hỗ trợ Trung tâm này đi vào hoạt động bền vững. Nhật Bản đã hỗ trợ gói trang thiết bị y tế trị giá hơn 200 triệu USD song phương cho các nước ASEAN; đã hỗ trợ ASEAN 16 triệu liều vắc-xin cho các nước ASEAN trong tổng số 30 triệu liều cung cấp ra nước ngoài, dành 2,5 tỷ Yên thiết lập kho lạnh bảo quản và vận chuyển vắc-xin, hỗ trợ vật tư, công nghệ y tế, máy tạo oxy cho nhiều nước ASEAN.

Trong thúc đẩy phục hồi toàn diện, hai bên nhất trí tăng cường thương mại và đầu tư, ủng hộ việc duy trì chuỗi cung ứng khu vực, đẩy mạnh hợp tác về chuyển đổi số, phát triển nguồn nhân lực trong nền kinh tế số, quản lý thiên tai, chuyển đổi năng lượng, tăng trưởng xanh…Nhật Bản tích cực hỗ trợ ASEAN triển khai Khung Phục hồi tổng thể với khoản cho vay trị giá 192 tỷ Yên với lãi suất thấp nhất.

Về song phương, quan hệ Việt Nam - Nhật Bản tiếp tục phát triển mạnh mẽ và toàn diện trên các lĩnh vực với sự tin cậy chính trị cao, giao lưu cấp cao và các cấp diễn ra mật thiết. Lãnh đạo cấp cao hai nước duy trì thường xuyên các chuyến thăm và tiếp xúc tại các diễn đàn quốc tế và khu vực, cụ thể:

Ủy ban Hợp tác Việt - Nhật do hai Bộ trưởng Ngoại giao làm đồng Chủ tịch (từ năm 2007, đã họp 11 lần); Ủy ban hỗn hợp về thương mại, năng lượng và công nghiệp (từ 2015, đến nay đã họp 05 lần); Đối thoại Nông nghiệp cấp Bộ trưởng (từ 2014, đến nay đã họp 05 lần); Đối thoại chính sách biển Việt Nam - Nhật Bản cấp Bộ trưởng (thành lập từ tháng 12/2019, họp lần thứ nhất tháng 4/2021); Đối thoại Đối tác chiến lược Việt Nam - Nhật Bản về ngoại giao - an ninh - quốc phòng cấp Thứ trưởng ngoại giao (từ năm 2010, đã họp 07 lần); Đối thoại Chính sách quốc phòng Việt - Nhật cấp Thứ trưởng (từ tháng 11/2012, đã họp 07 lần); Đối thoại An ninh cấp Thứ trưởng (từ tháng 11/2013, đã họp 07 lần).

Nhật Bản là nước tài trợ ODA lớn nhất, đối tác hợp tác lao động thứ 2, nhà đầu tư số 3, đối tác du lịch thứ 3, thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam.

Về thương mại, hai nước đã dành cho nhau thuế suất tối huệ quốc từ 1999. Trong 9 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Nhật Bản đạt trên 32,9 tỷ USD, giảm 7,9% so với cùng kỳ năm 2022; trong đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 17,2 tỷ USD, giảm 3,8%, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản đạt 15,7 tỷ USD, giảm 12% so với cùng kỳ năm 2022. 

Về đầu tư trực tiếp (FDI), FDI của Nhật Bản vào Việt Nam lũy kế tính đến 20/9/2023, đạt 71,3 tỷ USD với 5198 dự án còn hiệu lực, xếp thứ 3/143 các quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam. Trong 9 tháng đầu năm 2023, tổng vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam đạt khoảng 2,9 tỷ USD, tăng 50% so với cùng kỳ 2022. Về viện trợ phát triển chính thức ODA, Nhật Bản là nước cung cấp vốn vay bằng đồng Yên cho Việt Nam lớn nhất, tổng giá trị vay tính đến hết năm tài khóa 2020 là 2.812,8 tỷ Yên (tương đương 27,5 tỷ USD), chiếm hơn 26% tổng vốn ký kết vay nước ngoài của Chính phủ).

Hợp tác nông nghiệp: Hai bên đã ký kết và triển khai Tầm nhìn trung và dài hạn trong hợp tác Nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản (9/2015, ký sửa đổi tháng 5/2018, nhất trí triển khai giai đoạn hai 2020-2024 vào tháng 12/2020). Hợp tác ứng phó với biến đổi khí hậu tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thực chất với việc Nhật Bản liên tục cung cấp ODA những năm gần đây cho các dự án ứng phó với biến đổi khí hậu của Việt Nam.

Hợp tác lao động: Hai bên đã ký Bản ghi nhớ về việc Nhật Bản tiếp nhận điều dưỡng viên, hộ lý của Việt Nam; Bản ghi nhớ hợp tác về chế độ thực tập sinh kỹ năng (6/2017); Bản ghi nhớ hợp tác về chế độ Lao động kỹ năng đặc định (5/2019). Việt Nam là quốc gia phái cử nhiều nhất (khoảng 345.000 người) trong tổng số 15 quốc gia tham gia phái cử lao động cho Nhật Bản.

Hợp tác giáo dục: Việt Nam là nước đầu tiên trên thế giới chính thức đưa tiếng Nhật vào giảng dạy ở bậc trung học cơ sở từ năm 2003, tiểu học từ năm 2019. Nhật Bản là một trong những nước viện trợ lớn nhất cho ngành giáo dục - đào tạo của Việt Nam thông qua các chương trình viện trợ ODA. Hai bên đã ký kết nhiều văn kiện hợp tác trong lĩnh vực này. Số lưu học sinh Việt Nam tại Nhật Bản hiện đạt hơn 51.000 người. Nhật Bản đã hỗ trợ nâng cấp 04 trường đại học của Việt Nam đạt đại học chất lượng cao; đang hợp tác xây dựng Trường Đại học Việt - Nhật nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho Việt Nam trong lĩnh vực khoa học công nghệ, quản lý và dịch vụ.

Hợp tác địa phương hai nước: được thúc đẩy mạnh mẽ, địa phương của Việt Nam và Nhật Bản đã ký hơn 110 văn bản hợp tác, trong đó các cặp quan hệ tiêu biểu có Tp. Hồ Chí Minh với Osaka (2007), Nagano (2017), Hà Nội với Fukuoka (2008), Tokyo (2013), Đà Nẵng với Sakai (2009), Yokohama (2013), Phú Thọ - Nara (2014), Huế - Kyoto (2014), Hưng Yên - Kanagawa (2015), Hải Phòng - Niigata (2015)...

Hợp tác phòng chống COVID-19, Nhật Bản viện trợ không hoàn lại hơn 7,4 triệu liều vắc-xin, hơn 4 tỷ yên để cung cấp trang thiết bị, hỗ trợ kỹ thuật, cải thiện hệ thống y tế. Chính phủ, Quốc hội và địa phương ta hỗ trợ hơn 1,2 triệu khẩu trang cho Nhật Bản; đưa hơn 30.000 công dân Việt Nam về nước. Từ 11/10/2022, Nhật Bản đã nới lỏng quy chế cho phép khách du lịch Việt Nam nhập cảnh.

Cộng đồng người Việt Nam tại Nhật Bản đạt khoảng 520.000 người (chiếm đứng thứ 2 sau Trung Quốc). Người Việt Nam hiện sinh sống, làm việc và học tập trên khắp 47 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương của Nhật Bản, trong đó chủ yếu tập trung tại tỉnh Aichi (hơn 40.000 người) Tokyo (hơn 36.000 người) và các tỉnh Osaka (hơn 35.000 người), Saitama (gần 26.000 người), Chiba (khoảng 20.000 người), kyushu khoảng 62.000 người (Fukuoka khoảng 20.000 người).

Từ ngày 01/01/2004, Việt Nam đơn phương miễn thị thực cho người Nhật đi du lịch và kinh doanh vào Việt Nam trong vòng 15 ngày (từ ngày 01/7/2004, áp dụng cho mọi công dân mang hộ chiếu Nhật Bản) và nâng lên 45 ngày kể từ ngày 15/8/2023. Ngày 8/3/2005, hai bên đã trao đổi Công hàm miễn thị thực nhập cảnh cho công dân hai nước Việt Nam và Nhật Bản mang Hộ chiếu ngoại giao và công vụ trong thời hạn lưu trú không quá 90 ngày bắt đầu thực hiện từ 01/5/2005.

Nhật Bản bắt đầu thực hiện việc nới lỏng quy chế cấp thị thực nhiều lần (từ ngày 30/9/2014 và nới lỏng hơn từ ngày 15/02/2016) và thị thực một lần (từ 20/11/2014) cho công dân Việt Nam; đơn giản hóa thủ tục xin visa ngắn hạn dành cho người có vị trí trong xã hội (cán bộ, công chức cơ quan nhà nước, nhân viên doanh nghiệp tư nhân, nhà tri thức - văn hóa) từ ngày 01/3/2019; từ ngày 01/11/2023, cấp visa điện tử cho khách du lịch Việt Nam đi theo đoàn của các công ty du lịch được chỉ định.

Năm 2023 là dấu mốc quan trọng khi hai nước kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, trong chuyến thăm Nhật Bản của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, hai bên đã công bố nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình, thịnh vượng tại châu Á và trên thế giới.

Chuyến công tác tham dự Hội nghị cấp cao kỷ niệm 50 năm quan hệ ASEAN - Nhật Bản và tiến hành các hoạt động song phương tại Nhật Bản của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính có ý nghĩa quan trọng, thực hiện đường lối đối ngoại của Đại hội XIII của Đảng; Chỉ thị số 25-CT/TW của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030 và Kết luận 59-KL/TW của Bộ Chính trị về định hướng tham gia ASEAN đến năm 2030./.

Link nội dung: https://suckhoephapluat.nguoiduatin.vn/thu-tuong-pham-minh-chinh-len-duong-du-hoi-nghi-cap-cao-asean-nhat-ban-a79514.html