Tại buổi tọa đàm “Lũ lụt bất thường và sạt lở đất ở miền Trung: Thiên tai hay nhân tai?” được tổ chức sáng 5/11 tại Hà Nội, ông Nguyễn Tài Sơn - Chuyên gia độc lập về thủy điện - cho biết, địa hình tại miền Trung có đặc điểm dốc, từ xưa tới nay xảy ra rất nhiều trận lũ. Như từ năm 1952 đến nay có hàng chục trận lũ, gần nhất là trận lũ năm 1999 có tương đồng với trận lũ năm nay, số người chết 595 người.
Ông Nguyễn Tài Sơn đưa ra ví dụ: "Đợt mưa lũ vừa qua ở miền Trung, nước đổ về thủy điện Quảng Trị là 1.400m3/s, hồ Quảng Trị cắt được 296m3 (21%). Thủy điện Hương Điền (Thừa Thiên - Huế) cắt được 2.052m3/s trên lưu lượng đổ về 4.552 m3/s, đạt 45%. Thủy điện Đắk Mi 4 cắt được 2.353m3/s trên lưu lượng đổ về 3.149m3/s. Thủy điện sông Tranh 2 ở Quảng Nam từ qua đến nay đã cắt được 50% lũ".
Ông Sơn nói và cho rằng đợt mưa từ ngày 6 đến 20/10 ở miền Trung nhiều nơi ghi nhận hơn 2.000mm là nguyên nhân chính dẫn tới lũ lụt, gây hậu quả nghiêm trọng. Riêng hồ thủy điện chỉ xả đúng lưu lượng nước đổ về.
Về ảnh hưởng đến rừng, ông Sơn nhận định thủy điện góp phần phục hồi độ che phủ rừng từ 28% năm 1995 lên 41,9% vào năm 2019. "Các thủy điện khi xây dựng đã phá đi diện tích rừng nhất định, nhưng họ phải đóng góp chi phí phục hồi rừng hàng năm. Đây là khoản tiền được trả trực tiếp cho người dân giúp họ có sinh kế mới không vào rừng khai thác như trước đây nữa. Tôi thấy việc làm này rất hay và cần được nhân rộng", ông Sơn nói.
"Dư luận hay nói, thủy điện gây lũ, nhưng chúng ta nên cần có cái nhìn toàn diện. Về lợi ích năng lượng, thuỷ điện chiếm 30 đến 40% năng lượng điện, nếu bỏ thì phải tìm năng lượng mới thay thế. Thuỷ điện không tiêu hao nguồn nước và dòng chảy, đó là nguyên lý cơ bản. Các hình thức của thuỷ điện, có liên quan tới tác động môi trường, thuỷ điện có hồ điều tiết dài hạn như Hoà Bình, Sơn La... Trước đây, chúng ta tranh luận gay gắt việc không nên làm thuỷ điện lớn vì tác động đến môi trường quá ghê gớm mà chỉ làm thuỷ điện nhỏ thôi vì tác động môi trường không đáng kể. Nhưng cho đến ngày nay thì chúng ta lại phản đối thuỷ điện nhỏ", ông Sơn thắc mắc.
Ngoài ra, ông Sơn phân tích thêm, khi đầu tư thuỷ điện thì chủ đầu tư thường chú ý tới lợi nhuận, có hiệu quả tài chính. Nhưng hiệu quả tài chính dù cao đến đâu cũng không được thông qua nếu không có hiệu quả kinh tế, hiệu quả kinh tế được hiểu là tác động tới kinh tế vùng (địa phương-PV), bảo vệ môi trường.
Ông Phạm Trọng Thực - Phó Cục trưởng cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (bộ Công Thương) cho biết, dưới góc độ quản lý, bộ Công Thương đã thực hiện luật Thuỷ lợi, đối với tất cả các hồ đều có quy trình vận hành, đều có cấp Trung ương và địa phương quản lý. Như thủy điện sông Tranh có báo cáo từng giờ về lưu lượng nước về để tham mưu cho Chủ tịch tỉnh về việc xả lũ.
“Tuy nhiên đối với quy trình vận hành thì việc cứu công trình hồ đập là nỗ lực rất lớn. Còn để vỡ hồ, xảy ra thiệt hại thì không biết như thế nào, quy trình là do con người, để xảy ra sự cố cần xem lại quy trình vận hành. Cũng nói thêm rằng, trong năm 2016 tới nay, bộ Công Thương không phê duyệt dự án thuỷ điện lấy đi m2 đất rừng tự nhiên nào”, ông Thực khẳng định.
Theo phân tích của PGS.TS Vũ Thanh Ca - khoa Môi trường, đại học Tài nguyên và Môi trường, năm 2010 một nhóm công tác của châu Âu có một nghiên cứu về là đập là lũ lụt để giảm nhẹ lũ lụt của hồ chứa các nước châu Âu. Đập thủy điện, thủy lợi giúp giảm nhẹ lũ lụt, tùy thuộc khả năng giảm nhẹ lũ lụt của từng hồ. Không có bất kỳ thông tin nào nói hồ chứa là tăng lũ lụt.
Thắc mắc về phân tích của PGS.TS Vũ Thanh Ca, phóng viên một tạp chí cho biết, bản thân anh vừa trở về từ tâm lũ miền Trung, theo anh được biết, trên thế giới thủy điện thường xả lũ đáy, nhưng Việt Nam đa phần thủy điện xả tràn. Khi thời điểm thủy điện no nước, góp phần đẩy tốc độ lũ lên rất nhanh, người dân vùng lũ nói trước khi làm thủy điện có lũ, nhưng sau đó thủy điện làm gia tăng tốc độ rất nhanh, người dân không kịp ứng phó.
Ông Nguyễn Tài Sơn lý giải, vấn đề này liên quan đến an toàn đập, đối với đập nếu mất an toàn là gây ra thảm họa. Xả đáy, hay xả mặt là phụ thuộc vào kết cấu công trình. Đập cao trên 60m người ta không dám xả đáy vì gây nguy cơ vỡ đập.
“Xả đáy để khắc phục yếu tố môi trường. Tiêu chuẩn của chúng ta là 100 năm và chúng ta thường chỉ làm xả sâu. Tất cả thủy điện nhỏ đều có xả đáy. Còn xả mặt là để tháo lượng nước tràn. Tôi khẳng định tất cả đập thủy điện ở nước ta kể cả thủy điện nhỏ đều có xả đáy”, ông Sơn nói.
“Chúng ta đang thực hiện luật Thủy lợi bằng Nghị định 114 của Chính phủ, yêu cầu các chủ hồ điều chỉnh quy trình vận hành hồ được phân cấp rõ ràng. Khi vận hành các vùng nước ở thượng lưu xuống hạ lưu sẽ chuyển về cơ quan quản lý như sở Công Thương của tỉnh”, ông Phạm Trọng Thực - Phó Cục trưởng cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp, bộ Công Thương cho biết.
Theo PGS.TS Trần Tân Văn, Viện trưởng viện Khoáng sản và Địa chất, bộ Tài nguyên và Môi trường, thủy điện chuyển nước từ lưu vực này sang lưu vực kia, trong đó có câu chuyện mất nước khiến người dân thay vì được hưởng nước tự nhiên thì bị mất đi dẫn đến tác động địa chất.
Ví dụ trên thế giới vào năm 1963, thủy điện của nước Ý ngay khi được kích hoạt đã có một khối đất lớn trượt xuống hồ, đẩy nước tràn mặt, trượt ra khỏi lòng hồ, quét đi cả một thị trấn, làm chết gần 2.000 người.
"Chúng ta cần phải tính toán kỹ lưỡng về tác động của thủy điện trong việc điều tiết lũ, tránh việc trượt lở đất gây hậu quả nghiêm trọng", ông Tân nói.
Từng phản bác ý kiến trên của các nhà khoa học, TS. Nguyễn Ngọc Chu (viện Toán học - trực thuộc viện Hàn lâm khoa học và Công nghệ Việt Nam) cho rằng, thủy điện nhỏ không có khả năng điều tiết mà còn góp phần tăng thêm mức độ nghiêm trọng của lũ. "Lưu lượng xả có thể không tăng so với dòng chảy tự nhiên, nhưng tốc độ chảy sẽ nhanh hơn khiến sức tàn phá của nước lũ lớn hơn", TS. Chu phân tích.
Ngoài ra, TS. Chu nhận định việc xây dựng nhiều thủy điện nhỏ tiềm ẩn nguy cơ về khai thác rừng tự nhiên. "Rừng tự nhiên sẽ có khả năng tiêu lũ khác so với rừng trồng. Diện tích rừng trồng có thể tăng lên nhưng chưa chắc đã giữ được nhiều nước bằng rừng tự nhiên", ông nói.