Nội dung vụ án
Nội dung vụ án thể hiện, ông Trần Văn Công và bà Phạm Thị Thuý (bà Thuý là vợ ông Công nhưng đã li hôn) cùng sở hữu và sử dụng nhà đất ở số 156 Kim Hoa (diện tích 133,8m2), phường Phương Liên, quận Đống Đa, TP Hà Nội.
Năm 2011, ông Công có nhu cầu bán nhà và đất ở số 156 Kim Hoa. Ông Phạm Đức Toàn là hàng xóm (ở số nhà 164 Kim Hoa) biết việc này nên đã hỏi mua với giá 22 tỉ đồng. Do ông Toàn không có đủ số tiền trả nên có bàn với ông Công kí hợp đồng chuyển nhượng nhà và đất số 156 Kim Hoa cho ông Lê Minh Tuấn (sinh năm 1976), ở phường Quán Thánh, quận Ba Đình, TP Hà Nội (ông Tuấn là bạn ông Toàn) để ông Tuấn cho ông Toàn vay 8 tỉ đồng.
Sau đó, ông Toàn lấy 2 tỉ đồng đặt cọc tiền mua nhà đất 156 Kim Hoa của ông Tuấn cho ông Công, còn 6 tỉ đồng ông Toàn dùng làm vốn đối ứng để vay Ngân hàng với số tiền 35 tỉ đồng thì sẽ trả nốt ông Công 20 tỉ đồng.
Thấy ông Toàn trả giá cao hơn thị trường nên ông Công và bà Thuý đồng ý phương án của ông Toàn đưa ra. Ngày 18/8/2011, ông Toàn, ông Tuấn và bà Hương (bà Hương là nhân viên Văn phòng Công chứng Lạc Việt) đến nhà ông Công tại số 156 Kim Hoa.
Tại đây, ông Toàn đưa cho ông Công một Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất 156 Kim Hoa lập sẵn giữa bên bán là ông Công, bà Thuý và bên mua là ông Toàn với giá 22 tỉ đồng. Đồng thời, ông Toàn bảo ông Công và bà Thuý kí Hợp đồng chuyển nhượng nhà 156 Kim Hoa cho ông Tuấn. Hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Công, bà Thuý và ông Tuấn do bà Hương lập. Sau khi ông Công, bà Thuý kí Hợp đồng chuyển nhượng ông Tuấn đưa cho ông Toàn 8 tỉ đồng; ông Toàn đưa cho ông Công 2 tỉ đồng đặt cọc như đã hứa.
Tiếp đó, ông Công và ông Toàn nhờ bà Hương lập Hợp đồng vay tài sản với nội dung ông Toàn vay ông Công 20 tỉ đồng (là số tiền mua nhà ông Toàn còn thiếu). Còn “Biên bản giao nhận tiền”, “Văn bản cho mượn nhà” được lập ngày 18/8/2011 và “Phiếu yêu cầu công chứng” ngày 20/10/2011, ông Công và bà Thuý không kí và cũng không hề biết việc này.
Theo trình bày của ông Lê Minh Tuấn – nguyên đơn,ngày 18/8/2011 tại nhà 156 Kim Hoa, ông Công, bà Thuý đã kí Hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất và tài sản gắn liền với đất tại 156 Kim Hoa cho ông với giá mua là 8 tỉ đồng. Hợp đồng chuyển nhượng do chị Hương là nhân viên Văn phòng Công chứng Lạc Việt lập. Tại “Biên bản giao nhận tiền” cùng ngày 18/8/2011, thể hiện ông Tuấn đã thanh toán cho ông Công, bà Thuý đủ 8 tỉ đồng.
Đồng thời các bên còn lập “Văn bản cho mượn nhà” với nội dung: Ông Tuấn cho ông Công, bà Thuý mượn lại nhà 156 Kim Hoa để ở, thời hạn 2 tháng, hết thời hạn ông Công, bà Thuý phải thu dọn toàn bộ đồ đạc để trả nhà cho ông Tuấn kể cả chưa tìm được chỗ ở mới”.
Do trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản trên đất ghi còn nợ nghĩa vụ tài chính nên ông Công nhờ bà Hương làm giúp việc xoá nợ nghĩa vụ tài chính. Tuy nhiên, bà Hương lại chuyển giấy tờ nhà đất 156 Kim Hoa cho ông Tuấn đi làm nghĩa vụ tài chính. Ngày 20/10/2011, ông Tuấn thực hiện xong việc xoá nợ nghĩa vụ tài chính ghi trên giấy chứng nhận và đưa lại giấy tờ nhà đất cho Văn phòng Công chứng Lạc Việt.
Ngày 20/10/2011, Công chứng viên Trần Quốc Khánh, Trưởng Văn phòng Công chứng Lạc Việt đã viết công chứng: “Ngày 18/8/2011, tại nhà đất 156 Kim Hoa, ông Công, bà Thúy kí tên vào Hợp đồng bán nhà cho ông Tuấn trước mặt ông Khánh”.
Phát hiện sự việc có dấu hiệu sai phạm, ngày 29/11/2011, ông Công đã có đơn gửi Bộ Công an về việc ông Toàn; Tuấn; Khánh và bà Hương có dấu hiệu lừa đảo “hòng” chiếm đoạt tài sản nhà và đất của ông và bà Thuý ở số 156 Kim Hoa. (Hiện vụ việc đang được Công an TP Hà Nội giải quyết, tuy nhiên chưa công bố kết quả điều tra, do ông Toàn đang bị Công an TP Hà Nội truy nã - số: 130 ngày 17/9/2013).
Quyết định của các cấp Toà án và kháng nghị của Viện KSND Cấp cao tại Hà Nội
Ngày 9/5/2022, TAND TP Hà Nội đã đưa vụ án dân sự trên ra xét xử sơ thẩm. Tại phiên Toà, đại diện Viện KSND TP Hà Nội cho rằng: “Toà án chưa thu thập được lời khai của ông Toàn và cơ quan điều tra chưa có kết luận giải quyết đơn tố giác tội phạm của ông Công, nên đề nghị Toà án tạm ngừng phiên toà để chờ kết luận của cơ quan điều tra. Trường hợp Toà án không tạm ngừng phiên Toà thì Viện KSND không phát biểu về nội dung vụ án”.
Tuy nhiên, vụ án vẫn được xét xử, và với Bản án số: 18/2022/DS-ST ngày 9/5/2022, TAND TP Hà Nội tuyên, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Minh Tuấn và chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Trần Văn Công, bà Phạm Minh Thuý.
Huỷ Hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất số 156 Kim Hoa giữa ông Trần Văn Công, bà Phạm Minh Thuý với ông Lê Minh Tuấn có Số công chứng số 1562.2011/HĐ-CN ngày 20/10/2011, tại Văn phòng Công chứng Lạc Việt. Huỷ “Văn bản cho mượn nhà” lập ngày 18/8/2011 giữa ông Công, bà Thuý với ông Tuấn. Huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ), quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH00453, số vào sổ cấp GCN: 5879/2011/QĐ-UBND do UBND quận Đống Đa cấp cho ông Lê Minh Tuấn ngày 16/11/2011. Buộc ông Trần Văn Công, bà Phạm Minh Thuý có trách nhiệm liên đới trả cho ông Lê Minh Tuấn số tiền 15.200.000.000 đồng, trong đó phần của ông Công, bà Thuý mỗi người 7.600.000.000 đồng.
Không đồng tình với Bản án dân sự sơ thẩm số:18/2022/DS-ST ngày 9/5/2022 của TAND TP Hà Nội, ông Tuấn và ông Công, bà Thuý đều có đơn kháng cáo toàn bộ bản án tới TAND Cấp cao tại Hà Nội. Ngày 8/6/2022, Viện KSND Cấp cao tại Hà Nội có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số: 17/QĐKNPT-VC1-DS. Theo đó, sau khi xác minh, Viện KSND Cấp cao tại Hà Nội xét thấy: Ngày 18/8/2011, ông Công, bà Thuý kí Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất số 156 Kim Hoa cho ông Phạm Đức Toàn với giá 22 tỉ đồng. Đồng thời, trong ngày 18/8/2011, ông Công, bà Thuý kí “Văn bản mượn nhà” số 156 Kim Hoa với ông Lê Minh Tuấn (bên cho mượn) trong thời gian 2 tháng và cùng ngày giữa ông Công, bà Thuý (bên cho vay) với ông Toàn (bên vay) đã kí Hợp đồng vay tiền có dấu và chữ kí của Công cứng viên Văn phòng Công chứng Lạc Việt số tiền vay là 20 tỉ đồng.
Ngày 20/10/2011, ông Khánh là Công chứng viên Văn phòng Công chứng Lạc Việt đã công chứng về việc: ông Công, bà Thuý kí Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất số 156 Kim Hoa giá 8 tỉ đồng cho ông Tuấn. Ngày 16/11/2011, ông Lê Minh Tuấn được UBND quận Đống Đa cấp GCNQSDĐ đối với nhà đất, số 156 Kim Hoa.
Ông Công, bà Thuý trình bày việc kí Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất trên cho ông Tuấn chỉ nhằm để bảo đảm khoản nợ ông Tuấn cho ông Toàn vay 8 tỉ đồng để ông Toàn lấy 2 tỉ đồng đặt cọc nhà của ông với giá 22 tỉ đồng, còn 6 tỉ đồng làm tài sản đối ứng vay Ngân hàng 20 tỉ đồng để trả nốt số tiền mua nhà cho ông.
Liên quan đến vụ việc, ngày 10/6/2012, ông Tuấn gửi đơn đến Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT), Bộ Công an đề nghị giải quyết việc ông Toàn chiếm đoạt tài sản của ông, vì đã cho ông Toàn vay số tiền 8 tỉ đồng và được ông Toàn trả bằng việc kí Hợp đồng mua bán nhà, đất số 156 Kim Hoa.
Ngày 29/11/2011, ông Công, bà Thuý cũng có đơn tố cáo ông Toàn và các cá nhân liên quan có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản gửi Cơ quan CSĐT, Bộ Công an. Thực tế ông Công, bà Thuý chỉ nhận 2 tỉ đồng tiền đặt cọc tiền chuyển nhượng nhà, đất số 156 Kim Hoa từ ông Toàn.
Cơ quan CSĐT, Công an TP Hà Nội đã tiếp nhận giải quyết tin báo tố giác tội phạm của ông Tuấn, ông Công và bà Thuý đối với hành vi chiếm đoạt tài sản có liên quan đến nhà, đất số 156 Kim Hoa.
Ngày 3/8/2018, Cơ quan CSĐT có Công văn số: 1585/CV-PC46-Đ9, với nội dung: Ngoài tội danh khác đã bị khởi tố, ông Toàn còn có hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản thông qua thoả thuận vay tiền để đặt cọc mua nhà của ông Công, bà Thuý, sau đó bỏ trốn. Hiện, Cơ quan CSĐT Công an TP Hà Nội đang tiến hành xác minh, truy bắt và xử lí theo pháp luật.
Trong khi chưa có kết quả giải quyết của Cơ quan CSĐT đối với tin báo tố giác nêu trên nhưng Toà án vẫn giải quyết vụ án dân sự là vi phạm điểm d, Khoản 1, Điều 214 Bô luật Tố tụng dân sự năm 2015. Trường hợp này phải tạm đình chỉ vụ án dân sự để chờ kết quả xử lí tin báo tố giác mới đúng. Vì khi có căn cứ khởi tố vụ án hình sự đối với ông Toàn thì Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất và Hợp đồng vay tiền thực chất chỉ là phương tiện, thủ đoạn để ông Toàn thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của ông Tuấn. Khi Cơ quan điều tra giải quyết tin báo không có căn cứ khởi tố thì Toà án mới thụ lí giải quyết theo thẩm quyền.
Các bên đều biết việc kí Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất là để che giấu giao dịch khác, trong trường hợp là Hợp đồng vô hiệu thì giải quyết hậu quả của Hợp đồng vô hiệu. Trong trường hợp đó cần xác định lỗi của ông Công, bà Thuý và ông Tuấn khi giải quyết vụ án. Tuy nhiên, Toà án cấp sơ thẩm không đề cập đến việc xử lí Hợp đồng vô hiệu, song phần Quyết định vẫn áp dụng Điều 127, Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005, về giao dịch vô hiệu và hậu quả pháp lí của giao dịch vô hiệu để giải quyết vụ án là có sự không đồng nhất trong việc nhận định và quyết định của bản án, không buộc ông Tuấn phải chịu một phần lỗi mà buộc ông Công, bà Thuý có trách nhiệm liên đới trả ông Tuấn toàn bộ số tiền 8 tỉ đồng và lãi suất, tổng số tiền 15,2 tỉ đồng là không có căn cứ. Mặt khác, Bản án sơ thẩm buộc ông Công, bà Thuý mỗi người có trách nhiệm liên đới trả cho ông Tuấn 7,6 tỉ đồng là chưa có cơ sở vững chắc vì theo Quyết định thuận tình li hôn thì quyền sở hữu đối với nhà, đất số 156 Kim Hoa của ông Công và bà Thuý không bằng nhau (ông Công được sở hữu 91,8m2, bà Thuý 38,5m2) khi buộc trách nhiệm liên đới phải chia theo tỉ lệ tài sản thuộc sở hữu riêng của từng người.
Do đó, Viện KSND Cấp cao tại Hà Nội quyết định kháng nghị toàn bộ Bản án dân sự số: 18/2022/DS-ST ngày 9/5/2022 của TAND TP Hà Nội và đề nghị TAND Cấp cao tại Hà Nội xét xử theo hướng hủy Bản án số: 18/2022/DS-ST ngày 9/5/2022 của TAND TP Hà Nội.
Ngày 27/10/2023, TAND Cấp cao tại Hà Nội đưa vụ án “Tranh chấp đòi nhà đất; hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất, hợp đồng mượn nhà, đất; hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” ra xét xử phúc thẩm.
Sau khi nghe các bên tranh tụng, đại diện Viện KSND Cấp cao tại Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện KSND Cấp cao tại Hà Nội, chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn Công huỷ bản án sơ thẩm của TAND TP Hà Nội.
Tuy nhiên, Hội đồng xét xử tuyên: Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự đối với kháng cáo của nguyên đơn ông Lê Minh Tuấn và một phần kháng cáo của bị đơn ông Trần Văn Công; Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Trần Văn Công và Quyết định kháng nghị của Viện KSND Cấp cao tại Hà Nội; Giữ nguyên quyết định của Bản án số: 18/2022/DS-ST ngày 9/5/2022 của TAND TP Hà Nội (Bản án phúc thẩm dân sự số: 525/2023/DS-PT ngày 27/10/2023).
Đề nghị xem xét và kháng nghị vụ án
Theo ông Trần Văn Công, khi ông Tuấn có đơn khởi kiện ông và bà Thuý, ông đã có đơn yêu cầu phản tố. Tuy nhiên, Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm vẫn buộc ông Công, bà Thuý có trách nhiệm liên đới trả cho ông Tuấn số tiền 15,2 tỉ đồng, bao gồm: Tiền gốc 8 tỉ đồng và 10 năm tiền lãi.
Thực tế, ông Công không nhận tiền từ ông Tuấn, chỉ nhận 2 tỉ đồng của ông Toàn khi “đặt cọc” mua nhà 156 Kim Hoa. Việc kí giấy nhận 8 tỉ đồng của ông Tuấn là do bà Hương đã “lừa” kí. Việc “lừa kí” này ông Công đã có đơn tố cáo gửi Công an TP Hà Nội, đến nay Công an TP Hà Nội chưa truy bắt được ông Toàn cũng như chưa công bố kết luận điều tra.
Mới đây, ngày 14/10/2024, Cục Thi hành án dân sự (THADS) TP Hà Nội có Quyết định thi hành án theo yêu cầu số: 51-/QĐ-CTHADS. Theo đó, Cục THADS TP Hà Nội yêu cầu ông Công, bà Thuý phải trả 15,2 tỉ đồng cho ông Lê Minh Tuấn.
“Mặc dù “án oan”, nhưng chúng tôi vẫn chuyển một phần tiền để thi hành án, và tiếp tục có đơn đề nghị Viện KSND Tối cao và TAND Tối cao xem xét Bản án theo thủ tục giám đốc thẩm. Khi nào có kết quả cuối cùng, kể cả có đúng hay sai chúng tôi cũng sẽ chấp hành việc thi hành án.
Trao đổi với T.s Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư TP Hà Nội được biết:
Thứ nhất, trong quá trình giải quyết vụ án, các cấp Toà không triệu tập và lấy lời khai của ông Phạm Đức Toàn để xác minh có hay không có việc ông Toàn vay 8 tỉ đồng của ông Tuấn ngày 18/8/2011? Thay vào đó, Toà án lại yêu cầu ông Công và bà Thuý có trách nhiệm liên đới trả nợ thay cho ông Toàn 8 tỉ đồng, việc này không có cơ sở.
Thứ hai, các cấp Tòa phải đợi Kết luận điều tra của Công an TP Hà Nội về việc có hay không có việc ông Toàn vay 8 tỉ đồng của ông Tuấn ngày 18/8/2011? Nhưng Tòa án đã yêu cầu ông Công bà Thuý có trách nhiệm liên đới trả nợ thay 8 tỉ đồng cho ông Toàn.
Thứ ba, hồ sơ cấp sổ đỏ nhà đất 156 Kim Hoa sang tên ông Tuấn là không đủ điều kiện có căn cứ hợp pháp để ông Tuấn đòi lấy nhà đất 156 Kim Hoa. Tuy nhiên, Toà án thụ lí đơn kiện giúp ông Tuấn đòi lấy nhà đất 156 Kim Hoa(!?) Trong khi đó, ông Công bà Thuý đã tố cáo trong hồ xin cấp sổ đỏ nhà đất sang tên ông Tuấn có việc giả mạo chữ kí của trong: Tờ khai nộp tiền sử dụng đất; tờ khai nộp lệ phí trước bạ; tờ khai thuế thu nhập cá nhân; Tố cáo công chứng hợp đồng chuyển nhượng nhà đất do Công chúng viên Trần Quốc Khánh công chứng sai luật; Tố cáo giấy biên nhận đã nhận 8 tỉ đồng của ông Tuấn là do bà Hương lừa kí. Công an TP Hà Nội chưa truy bắt được ông Toàn nên chưa công bố kết luận điều tra.
Thứ tư, bản án của Toà các cấp nhận định: Việc ông Công, bà Thúy kí hợp đồng chuyển nhượng nhà đất số 156 Kim Hoa cho ông Tuấn là để bảo đảm cho khoản vay 8 tỉ đồng của ông Toàn đối với ông Tuấn. Nay, ông Toàn bỏ trốn không trả nợ (8 tỉ đồng) cho ông Tuấn thì ông Công, bà Thúy phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho khoản nợ của ông Toàn, mà ông Công, bà Thúy đã thực hiện bằng Hợp đồng chuyển nhượng nhà 156 Kim Hoa giữa ông Công, bà Thúy và ông Tuấn (kí ngày 18/8/2011). Có nghĩa là, ông Công, bà Thuý có trách nhiệm liên đới với ông Toàn vay 8 tỉ đồng của ông Tuấn, nhưng không có giấy của ông Toàn xác nhận đã vay 8 tỉ của ông Tuấn, nay ông Toàn bỏ trốn thì ông Công, bà Thúy phải trả cho ông Tuấn 8 tỉ đồng.
Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án không có đủ vật chứng và lời khai để chứng minh nhận định trên của Tòa án là có cơ sở. Cụ thể: Ngày 22/5/2018, ông Tuấn có khai với Toà án là không có chuyện ông Tuấn giao 8 tỉ đồng cho ông Toàn vào ngày 18/8/2011.
Tòa án không có giấy vay tiền của ông Toàn để xác minh: Ngày 18/8/2011, ông Toàn đã vay 8 tỉ đồng của ông Tuấn. Không có hợp đồng bảo lãnh của ông Công, bà Thuý xác nhận kí Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất 156 Kim Hoa giá 8 tỉ đồng cho ông Tuấn là để bảo đảm cho khoản vay 8 tỉ đồng của ông Toàn đối với ông Tuấn ngày 18/8/2011, thì Tòa án không có cơ sở để chứng minh ông Toàn vay 8 tỉ đồng của ông Tuấn, để chứng minh ông Công, bà Thuý có liên đới đến việc ông Toàn về khoản tiền 8 tỉ đồng, mà cáo buộc ông Toàn vay của ông Tuấn.
Bên cạnh đó, cũng không có xác nhận ngày nào đến hạn ông Toàn phải trả nợ 8 tỉ đồng cho ông Tuấn, thì các cấp Tòa án không biết ngày nào đến hạn để buộc ông Công, bà Thúy phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ 8 tỉ đồng thay ông Toàn cho ông Tuấn.
Thứ năm, ngày 20/10/2011, ông Tuấn cho công chứng thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng nhà 156 Kim Hoa cho ông Tuấn là vi phạm Điều 366 Bộ luật Dân sự năm 2005, vì ông Tuấn không được yêu cầu ông Công, bà Thúy thực hiện nghĩa vụ thay cho ông Toàn khi nghĩa vụ chưa đến hạn. Bản công chứng là không trung thực vô hiệu, vi phạm Điều 3 Luật Công chứng năm 2006. Do đó, Hồ sơ cấp sổ đỏ nhà đất 156 Kim Hoa sang tên ông Tuấn không đủ điều kiện hợp pháp để ông Tuấn đòi lấy nhà đất 156 Kim Hoa. Tuy nhiên, Tòa án vẫn nhận định: Ông Công, bà Thuý phải thực hiện việc bàn giao nhà đất cho bên mua kể từ thời điểm hợp đồng chuyển nhượng phát sinh hiệu lực pháp luật (16/11/2011 cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà đất cho ông Tuấn) là có dấu hiệu oan sai.
Thứ sáu, vì Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất 156 Kim Hoa cho ông Tuấn kí ngày 18/8/2011 và được cấp sổ đỏ ngày 16/11/2011, nhưng khi đến xét xử sơ thẩm ngày 9/5/2022, phải gần 10 năm sau ông Tuấn mới yêu cầu đòi tiền lãi, như vậy là hết thời hiệu khởi kiện đòi tiền lãi (thời hiệu là 3 năm). Toà án vẫn buộc ông Công, bà Thúy trả cho ông Tuấn tiền lãi 9%/năm của 8 tỉ đồng trong 10 năm là 7,2 tỉ đồng, là thiếu cơ sở.
Thứ bảy, Bản án buộc ông Công, bà Thuý có trách nhiệm liên đới với ông Toàn bị cáo buộc vay 8 tỉ đồng của ông Tuấn, nhưng không có giấy của ông Toàn xác nhận đã vay 8 tỉ đồng của ông Tuấn. Nay Toàn bỏ trốn, ông Công, bà Thúy trả cho ông Tuấn tiền gốc 8 tỉ đồng và lãi trong 10 năm, tổng là 15,2 tỉ đồng là thiếu cơ sở. Thực tế trong Vi bằng số 369/2022/VB-TPLĐD ngày 5/5/2022, ghi lại cuộc nói chuyện giữa ông Công với ông Tuấn, trong đó ông Tuấn có thừa nhận: Ông Toàn chỉ đưa cho ông Công 2 tỉ đồng, và ông Tuấn có thừa nhận: “Không bao giờ, anh chị chỉ cầm 2 tỉ mà em đến đuổi anh chị ra khỏi nhà...”.
Liên quan đến vụ án trên, đồng thời nhằm giúp Nhà nước việc hoàn thiện thực thi pháp luật trong lĩnh vực tố tụng dân sự, theo tôi thì ông Công, bà Thuý nên khẩn trương làm đơn gửi đến Chánh án TAND Tối cao và ông Viện trưởng Viện KSND Tối cao sớm xem xét những dấu hiệu “oan sai” như tôi đã phân tích ở trên và ban hành Quyết định kháng nghị Giám đốc thẩm đối với Bản án số 18/2022/DS-ST ngày 9/5/2022 của TAND TP Hà Nội và Bản án số 525/2023/DS-PT ngày 27/10/2023 của TAND Cấp cao tại Hà Nội.
Ngoài ra, tôi cũng đề nghị Chánh án TAND Tối cao và Viện trưởng Viện KSND Tối cao xem xét và kháng nghị kịp thời theo thủ tục giám đốc thẩm đối với hai bản án nêu trên một cách toàn diện, khách quan, đúng các quy định pháp luật”, luật sư Đặng Văn Cường kiến nghị. Bên cạnh đó, cũng đề nghị Cục THADS TP Hà Nội tạm thời hoãn việc thi hành án và Công an TP Hà Nội cần sớm bắt được ông Toàn, sau đó điều tra xét xử theo đúng quy định pháp luật.