Dự báo số lượng xe máy sẽ tiếp tục gia tăng: Chuyên gia nói về về bài toán an toàn giao thông?

Kiều Trinh

Đó là nhận định của ông Trần Hữu Minh, Chánh Văn phòng Ủy ban ATGT Quốc gia tại Hội thảo "An toàn giao thông xe máy: Những thách thức và bài học kinh nghiệm".

Quang cảnh Hội thảo "An toàn giao thông xe máy: Những thách thức và bài học kinh nghiệm"

Quang cảnh Hội thảo "An toàn giao thông xe máy: Những thách thức và bài học kinh nghiệm"

Ngày 4/11, tại Hà Nội, Viện Chiến lược và Phát triển giao thông vận tải (TDSI) phối hợp với Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và các cơ quan liên quan tổ chức Hội thảo quốc tế "An toàn giao thông xe máy: Những thách thức và bài học kinh nghiệm". 

Hội thảo nhằm mang đến những giải pháp tổng thể cho an toàn giao thông xe máy ở Việt Nam và góp phần chia sẻ với các quốc gia khác trên thế giới. 

Xe máy vẫn là phương tiện giao thông chính

Phát biểu tại Hội thảo, TS. Khuất Việt Hùng, Viện trưởng Viện Chiến lược và phát triển GTVT (Bộ GTVT) cho biết, đảm bảo an toàn giao thông xe máy là vấn đề rất nóng bỏng hiện nay, không chỉ ở Việt Nam hay Ấn Độ mà trên toàn cầu. Xe máy là phương tiện di chuyển chính, đặc biệt tại các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, nơi xe máy không chỉ là phương tiện cá nhân mà còn là công cụ sản xuất, kinh doanh, vận chuyển hàng hóa và dịch vụ.  

TS. Khuất Việt Hùng, Viện trưởng Viện Chiến lược và phát triển GTVT phát biểu tại Hội thảo

TS. Khuất Việt Hùng, Viện trưởng Viện Chiến lược và phát triển GTVT phát biểu tại Hội thảo

Tuy nhiên, song hành với sự tiện lợi và phổ biến của xe máy là những thách thức không nhỏ, nhất là trong việc đảm bảo an toàn giao thông. Tai nạn giao thông liên quan đến xe máy đã và đang để lại hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến đời sống người dân và nền kinh tế của nhiều quốc gia. 

Tại Việt Nam, theo số liệu thống kế mới nhất, đến cuối năm 2023 cả nước có hơn 73 triệu xe máy, chiếm khoảng 93% tổng số phương tiện giao thông đường bộ. Tỉ lệ tai nạn giao thông liên quan đến xe máy chiếm khoảng 60% tổng số vụ TNGT đường bộ. Điều này đòi hỏi chúng ta phải có những giải pháp quyết liệt và toàn diện hơn để bảo vệ người đi xe máy, giảm thiểu thương vong và hậu quả từ các vụ tai nạn. 

“Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong việc cải thiện ATGT, đặc biệt là đối với người đi xe máy. Chúng tôi đã triển khai nhiều chương trình và chính sách quan trọng như bắt buộc đội mũ bảo hiểm, kiểm soát nồng độ cồn khi điều khiển xe máy, cải thiện hạ tầng giao thông và đẩy mạnh giáo dục, nâng cao nhận thức của người dân về ATGT. Những nỗ lực này đã mang lại kết quả tích cực”, ông Hùng cho hay.

Trong khuôn khổ hội thảo, TS. Angela Pratt, Trưởng đại diện Tổ chức Y tế Thế giới tại Việt Nam (WHO) nhìn nhận, thời gian qua Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để cải thiện ATGT xe máy, đây chính là những kinh nghiệm tuyệt vời để chia sẻ trong hội thảo. 

Với vai trò là Trưởng đại diện WHO tại Việt Nam, bà Angela Pratt nhận ra rằng xe máy có vai trò quan trọng trong di chuyển của người dân tại Việt Nam, đây là phương tiện phổ biến, tiện lợi, ít chi phí, dễ dàng di chuyển đến mọi nơi trong khu vực, có thể sử dụng để đi học, đi làm, di chuyển trong thành phố. 

Hiện Việt Nam có 74 triệu xe máy và con số này tiếp tục tăng, cứ 9/10 phương tiện trên đường là xe máy. Việt Nam cũng đã có nhiều cải thiện thay đổi chính sách nâng cao nhận thức, cải thiện hạ tầng, làm giảm thương tật và tỷ lệ tử vong do TNGT giảm hơn 40% trong giai đoạn từ năm 2010 – 2021. 

Bà Angela Pratt cho rằng Việt Nam và các nước trên thế giới vẫn cần thêm nhiều nỗ lực để tăng cường ATGT dành cho xe máy, qua đó giúp giảm tỷ lệ tử vong liên quan đến phương tiện này. Toàn thế giới cần bắt tay để có những giải pháp phòng ngừa rủi ro TNGT và không được coi đây là tai nạn không thể phòng tránh. 

Bà Angela Pratt cũng nhấn mạnh WHO luôn mong muốn được đồng hành cùng Việt Nam và các quốc gia trong việc đảm bảo ATGT đối với người đi xe máy, trong đó, đặc biệt quan tâm đến an toàn cho trẻ em khi tham gia giao thông trên xe máy. Hiện rất nhiều trẻ em tại Việt Nam đang được cha mẹ đưa đến trường bằng xe máy, do đó, việc tìm phương án giảm thiểu rủi ro mất ATGT cho lứa tuổi này rất quan trọng.

 “WHO mong muốn thúc đẩy hợp tác với các cơ quan của Việt Nam trong tương lai, qua đó, hỗ trợ triển khai Luật TTATGT đường bộ và Luật Đường bộ sẽ có hiệu lực từ 1/1/2025”, Bà Angela Prattnhấn mạnh. 

Bà Roxanne Paisible, Phó giám đốc vận động chính sách, Chương trình an toàn giao thông, GHAI

Bà Roxanne Paisible, Phó giám đốc vận động chính sách, Chương trình an toàn giao thông, GHAI

Đánh giá cao những nỗ lực của Việt Nam để giảm thiểu TNGT liên quan xe máy, bà Roxanne Paisible, Phó giám đốc vận động chính sách, Chương trình an toàn giao thông (GHAI) chia sẻ: “Chúng tôi đã làm việc với nhiều tổ chức, quốc gia trên toàn cầu để giảm thiểu TNGT liên quan đến xe máy. Đồng thời chúng tôi cũng làm việc với các bên nghiên cứu để làm chính sách liên quan đến xe máy, giúp người sử dụng loại phương tiện này ngày càng an toàn hơn”. 

GHAI là một phần sáng kiến của an toàn đường bộ. Ở rất nhiều quốc gia, xe máy là phương tiện rất quan trọng và phổ biến bởi tính thuận tiện và dễ tiếp cận. Các hộ gia đình phụ thuộc vào xe máy để chở con đến trường, đi làm… Với xe ôm hay grab, đây là phương tiện sinh nhai vì vậy tỉ lệ sử dụng xe máy vẫn luôn tăng. Tuy nhiên, TNGT xe máy lại tăng lên. 

Do đó, bà Roxanne Paisible cho rằng cần có thêm những giải pháp chính sách liên quan đến an toàn xe máy. GHAI cho biết sẽ tiếp tục hỗ trợ Chính phủ Việt Nam trong việc giảm thiểu TNGT xe máy. Đồng thời, đánh giá cao những nỗ lực mà Việt Nam đã làm được để giảm thiểu TNGT liên quan đến xe máy”. 

Bà Roxanne Paisible cũng mong muốn tất cả các bên cần chung tay để tăng cường, hoàn thiện thêm các giải pháp để đảm bảo ATGT cho người đi xe máy. 

Những kết quả tích cực 

Ông Trần Hữu Minh, Chánh Văn phòng Ủy ban ATGT Quốc gia chia sẻ, Việt Nam là một quốc gia có tỷ lệ sở hữu và sử dụng xe máy cao. Đến thời điểm tháng 9/2024 đã có 77 triệu xe máy đăng ký, đưa tỷ lệ sở hữu xe máy trên 1.000 dân tới 770 xe, thuộc hàng cao nhất thế giới. 

Trong bối cảnh đặc thù về quy hoạch xây dựng và bất cập về hạ tầng giao thông, các lợi thế của xe máy như tốc độ khá cao, có khả năng chuyên chở, sự linh hoạt, thuận tiện, cơ động, tiện nghi, chi phí vận hành rẻ... càng được phát huy lên gấp bội khi được so sánh với các phương tiện vận tải khác. Nhưng một trong những nhược điểm của xe máy là độ an toàn thấp.

Ông Trần Hữu Minh, Chánh Văn phòng Ủy ban ATGT Quốc gia

Ông Trần Hữu Minh, Chánh Văn phòng Ủy ban ATGT Quốc gia

Tuy nhiên, trong môi trường xe máy là một phương tiện chủ đạo (chiếm tới 85%), các phương tiện khác phải tuân theo dòng xe máy, người đi xe máy có được sự an toàn hơn (lý thuyết an toàn hơn với số đông), tốc độ thấp trong đô thị cũng giúp khắc phục nhược điểm an toàn của xe máy. Với số giờ nắng cao (1.700-2.600/năm), dải nhiệt độ thông thường 10-37% rất thuận lợi cho xe máy. 

Trong khi tại nhiều quốc gia người dân không thể đi xe máy do quá nóng, quá lạnh..., tại Việt Nam có thể đi xe máy quanh năm. Những yếu tố đặc thù đó tạo nên tỷ lệ sở hữu và sử dụng xe máy rất cao ở Việt Nam. Mặc dù có nhiều kế hoạch dự kiến quản lý, hạn chế chặt chẽ hơn, xe máy hiện nay vẫn là phương tiện đi lại của số đông người dân Việt Nam, chiếm 85-90% lưu lượng phương tiện trên đường và liên quan tới 60-70% số vụ TNGT.  

Theo các nghiên cứu gần đây, xe máy hiện tại và tương lai với số lượng mẫu khảo sát lớn hàng nghìn phiếu đều cho thấy xe máy vẫn tiếp tục gia tăng, thậm chí phần lớn các hộ gia đình có điều kiện sở hữu ô tô vẫn giữ xe máy để đáp ứng những mục tiêu nhất định trong cuộc sống. 

Ông Minh cho biết, trong nhiều năm qua, với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, công tác bảo đảm trật tự ATGT tại Việt Nam đã đạt được những kết quả rất tích cực, trong đó có kết quả bảo đảm ATGT với người đi xe máy, nhóm có tỷ lệ lớn nhất trong tham gia giao thông. 

Cũng theo Chánh Văn phòng Ủy ban ATGT Quốc gia, về mặt quản lý, Việt Nam đã phân định và đã có các quy định về các cơ quan tổ chức có liên quan tới đăng ký, ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật với mô tô xe máy, đào tạo sát hạch, quy tắc giao thông, xử lý vi phạm với các hành vi của người điều khiển xe máy, ứng phó cứu chữa các nạn nhân xe máy.

Như vậy về mặt quản lý, đã có khá đầy đủ các tổ chức với chức năng nhiệm vụ thẩm quyền được thể chế hóa và phân định khá rõ ràng. 

Về kết cấu hạ tầng và tổ chức giao thông, hệ thống báo hiệu đường bộ, tốc độ xe cơ giới, quy tắc giao thông như việc bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm khi ngồi trên xe máy, Việt Nam đều đã xây dựng những nội dung cho xe máy. Về phương tiện xe mô tô, xe máy, các quy định về phương tiện (đăng ký), tiêu chuẩn với xe mô tô xe máy, xe điện... đều đã được các cơ quan chức năng ban hành và tổ chức thực hiện. 

Về người điểu khiển xe máy, chương trình đào tạo sát hạch lái xe máy, kiểm tra sức khỏe người lái xe máy, các giải pháp an toàn bị động như đội mũ bảo hiểm khi ngồi trên xe mô tô xe máy đều đã được áp dụng tại Việt Nam. Công tác cấp cứu người bị nạn đã được thể chế hóa bằng các quy định pháp luật, người đi xe máy cũng bắt buộc phải tham gia bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. 

Về mặt chế tài, các quy định xử phạt vi phạm hành chính với hành vi vi phạm của người điều khiển xe máy đã được luật hóa trong nghị định xử phạt (NĐ 100 và NĐ 123). Đặc biệt các yếu tố có nguy cơ cao gây TNGT với xe máy hoặc gây hậu quả lớn đều được quản lý chặt chẽ trong các chế định và chế tài liên quan tới cấm sử dụng ma túy, cấm sử dụng rượu bia, quy định tốc độ xe máy, quy định bắt buộc đội mũ bảo hiểm khi ngồi trên mô tô xe máy, cấm sử dụng điện thoại khi điều khiển xe máy... 

"Như vậy có thể thấy về mặt các nội dung trong các trụ cột trong bảo đảm ATGT cho người đi xe máy, Việt Nam đã xây dựng, tổ chức thực hiện và do đó đã đạt được nhiều kết quả rất tích cực", Chánh Văn phòng Ủy ban ATGT Quốc gia nhận định.

Vẫn còn "khoảng trống" bất cập

Bên cạnh những kết quả làm được, Chánh Văn phòng Ủy ban ATGT Quốc gia cũng nêu những khoảng trống bất cập mà thời gian tới, cơ quan chức năng nên ưu tiên để có giải pháp tốt hơn.

Đầu tiên, Việt Nam có nguy cơ sẽ rơi vào tình trạng rủi ro va chạm do cơ giới hoá. Vấn đề cần có giải pháp thời gian tới là trẻ em đi xe máy có dung tích dưới 50cc. Hiện nay nhóm 16-18 tuổi có thể điều khiển xe máy dung tích dưới 50 cc một cách hợp pháp trong khi nhóm này vẫn thiếu kiến thức và đặc biệt thiếu kỹ năng điều khiển xe. Hiện tượng người dưới 16 tuổi điều khiển các loại xe hai bánh gặp TNGT vẫn đang diễn biến phức tạp.

Dự báo lượng xe máy sẽ tiếp tục tăng. Ảnh minh hoạ

Dự báo lượng xe máy sẽ tiếp tục tăng. Ảnh minh hoạ

Tiếp đến, có một số vụ TNGT xảy ra do những vi phạm những quy tắc giao thông rất cơ bản như không nhường đường khi từ đường phụ ra đường chính, đi vào điểm mù, chuyển hướng thiếu quan sát, đi sai phần đường...cho thấy các nội dung trong đào tạo và sát hạch lái xe máy cần được tiếp tục tăng cường.

Thêm vào đó, những bất cập trong quy hoạch sử dụng đất, tiêu chuẩn xây dựng tiêu chuẩn thiết kế... dẫn tới tình trạng giao thông hỗn hợp và rất khó tách làn cho xe máy.

Tiêu chuẩn làn xe máy và hướng dẫn thiết kế làn dành riêng cho xe máy mới được ban hành dưới dạng hướng dẫn tham khảo, và chưa được áp dụng một cách rộng rãi. Nếu quản lý tốt sẽ giảm được rất nhiều TNGT cho người đi xe máy.

Cũng theo ông Minh, mặc dù là điểm sáng về thực thi chính sách đội mũ bảo hiểm với người đi mô tô, xe máy, Việt Nam vẫn chưa có quy định xử phạt với trẻ dưới 6 tuổi khi ngồi trên xe mô tô, xe máy không đội mũ, chưa có tiêu chuẩn mũ bảo hiểm đi xe máy cho trẻ dưới 6 tuổi. Đây là những khoảng trống về mặt pháp luật cần được sớm bổ sung.

Bên cạnh đó tỷ lệ đội mũ bảo hiểm của trẻ em trên mô tô, xe máy còn thấp do nhận thức của một bộ phận của phụ huynh về mũ bảo hiểm còn chưa đúng đắn và chưa đầy đủ. Tỷ lệ đội mũ bảo hiểm của trẻ em trên sáu tuổi ngồi trên mô tô xe máy còn thấp.

Tiếp đến, mặc dù có hệ thống đăng ký xe mô tô xe máy tuy nhiên số lượng xe máy thực tế lưu hành thấp hơn so với số lượng thực tế đăng ký , bởi vậy con số đăng ký hiện nay chưa phản ánh số lượng xe máy thực sự lưu hành.

Bên cạnh đó, công tác thống kê phân tích TNGT xe máy trên lượng luân chuyển gặp khó khăn và chưa có kết quả do không có số liệu về công-tơ-mét của mô tô, xe máy do loại này chưa phải đăng kiểm và cũng chưa có hệ thống ghi nhận thông tin về đồng hồ công tơ mét xe máy.

Có thực trạng này là do bất cập trong quy định pháp luật chưa yêu cầu kiểm định kỹ thuật và khí thái với xe máy, trong khi đây là một nội dung cần phải làm với phương tiện cơ giới đường bộ.

Ngoài ra, mặc dù đã có quy định về thiết bị an toàn cho trẻ em trên ô tô, Việt Nam chưa có quy định cụ thể về thiết bị an toàn cho trẻ em trên xe máy, dẫn tới tình trạng dùng một tay lái xe, một tay giữ trẻ, trẻ ngủ gật trên xe có thể ngã...

Tiếp đến, mặc dù đã có tiêu chuẩn mô tô xe máy, các mức an toàn cho xe máy ở Việt Nam được xem là còn khá thấp (chưa có AHO, chưa có ABS hoặc phanh phối hợp Combined Brake...).

Mặc dù là phương tiện cơ giới, xe máy chưa phải chịu kiểm định an toàn kỹ thuật (sắp tới mới có kiểm định về môi trường) dẫn tới tình trạng một số xe máy đã cũ nát, không bảo đảm an toàn vẫn lưu hành.

Bất cập trong thực thi dẫn tới việc nhiều xe máy điện, xe điện lưu hành không đúng với thông số kỹ thuật đăng ký (công suất lớn hơn, tốc độ lớn hơn...).

"Một vấn đề nữa, những yếu kém trong công tác quy hoạch không gian đô thị và kết cấu hạ tầng giao thông cho xe máy, tổ chức giao thông, kết nối giữa xe máy với các phương thức vận tải công cộng khác còn hạn chế... Điều này tạo nên những bất lợi lớn cho vận tải công cộng và tạo ra ưu thế cho xe máy, dẫn tới thực trạng người dân sử dụng xe máy cho các chuyến đi dài, có lưu lượng giao thông lớn, phức tạp, tốc độ lưu thông cao dẫn tới nhiều vụ TNGT trên quốc lộ. 

Những bất hợp lý trong quy hoạch, thiếu hệ thống cho người đi bộ... cũng dẫn tới tình trạng lạm dụng xe máy (dùng cả với những chuyến đi có thể đi bộ, xe đạp...).

Chính bởi vậy các thách thức và giải pháp trong bảo đảm ATGT cho xe máy sẽ cần phải được ưu tiên trong các chương trình bảo đảm TTATGT trong thời gian tới", ông Minh nói thêm.