Kẽ hở luật pháp cần khắc phục trong quản lý động vật hoang dã

Biên tập viên

Các Quốc gia thuộc tiểu vùng Mê Công rất đa dạng về sinh học, nhân tố đóng vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày và văn hóa truyền thống địa phương. Từ xa xưa, người dân trong vùng đã nuôi động vật làm thú cảnh cũng như săn bắt động vật hoang dã dùng làm thuốc, thức ăn hoặc vật trang trí. Những năm gần đây, kinh tế khu vực phát triển đã thúc đẩy, làm tăng nhanh nhu cầu về các sản phẩm động vật hoang dã.

Trong số những động vật có nguy cơ tuyệt chủng gia tăng cao, rùa là loài đứng đầu. Loài động vật này đã suy giảm nhanh đến mức mà các nhà bảo tồn phải coi tình trạng này là “Cuộc khủng hoảng rùa Châu Á” với 17/25 loài trong tình trạng nguy cấp nhất.

nhung buc anh dong vat hoang da duoc khan gia binh chon nam 2018 hinh 1
 
Nhu cầu sản phẩm từ rùa để làm trang sức và sử dụng trong y học cổ truyền tăng mạnh ở khắp Trung Quốc, quốc gia tiêu thụ rùa lớn nhất thế giới, đã dẫn đến vấn nạn buôn bán rùa bất hợp pháp tràn lan. Nằm gần với Trung Quốc, các quốc gia trong khu vực Mê Công giữ vai trò quan trọng trong cung cấp rùa cho Trung Quốc. Những nỗ lực ở cấp độ quốc gia được triển khai trên khắp khu vực để bảo tồn rùa nhưng luật pháp trong nước mâu thuẫn với luật chống buôn lậu quốc tế đang tạo nhiều sơ hở cho buôn bán rùa bất hợp pháp.

Nhằm khắc phục nạn khai thác quá mức và suy giảm nhanh quần thể rùa ở khu vực sông Mê Công, các nhà khoa học thuộc Đại học Duke (Hoa Kỳ) đã tiến hành những nghiên cứu về nhân tố thúc đẩy thương mại rùa bất hợp pháp và chỉ ra những giải pháo cần can thiệp để giảm thiểu hoạt động này đặc biệt là ở Việt Nam và Lào.

Xu hướng tiêu thụ Đông vật hoang dã và những kẽ hở luật pháp.

Theo số liệu công bố ố liệu của tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (Wide Fund for Nature WWF) và Hiệp hội Bảo vệ Động vật và Vùng hoang dã Thế giới.( Wildlife Conservation Society WCS), vào năm 2018 tại Việt Nam đã có trên 4.500 tấn sản phẩm động vật hoang dã được bán và tiêu thụ. Trong số 26.221 bộ phân động vật hoang dã bị tịch thu từ năm 2013 đến 2017, gần 1/3 (8.118) là rùa. Với trên 10,3% trong số hơn 1.500 vụ bắt liên quan đến Động vật hoang dã (ĐVHD), rùa là nhóm loài lớn thứ hai trong số các vụ bắt giữ động vật hoang dã ở Việt Nam.

 Phần lớn rùa ở Việt Nam được xuất khẩu sang Trung Quốc,ước tính trị giá 750 triệu USD với hơn 300 triệu con rùa được bán hàng năm. Thị trường về rùa quý hiếm ở Việt Nam phục vụ nhu cầu làm thú cảnh, đặc sản và làm thuốc. Khi nguồn cung ngoài tự nhiên thu hẹp thì giá rùa tăng cao. Từ năm 2013 đến 2015, giá rùa hộp trán vàng miền Bắc đã tăng gấp 5 lần (từ 31,70 USD/kg lên 164,96 USD/kg) và giá rùa đất Spengle siêu nhỏ tăng trên 50 lần (từ khoảng 2 USD lên 105 USD) cho một cá thể.

Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu thuộc đại học Duke cho thấy  Buôn bán, trao đổi rùa trực tuyến đang tăng nhanh.Trên Facebook tồn tại rất nhiều nhóm có hàng chục nghìn thành viên hoạt động khá tích cực như: Hội Yêu Rùa Việt Nam (11.397 thành viên), Hội Yêu Rùa Cạn (10.784 thành viên)và Hội Yêu Rùa Kiểng Việt Nam (9.462 thành viên).

Mặc dù luật pháp Việt Nam và các nước trong khu vực không cho phép săn bắn và buôn bán các loài động vật quý hiếm và nguy cấp, nhưng chỉ áp dụng cho những loài bị bắt trong tự nhiên chứ không áp dụng cho các loài được nuôi trong các trang trại thương mại. Ở Việt Nam đã hình thành nhiều trại nuôi nhốt ĐVHD. Các trang trại này có xu hướng thay thế hoặc bổ sung các loài được nuôi bằng động vật hoang dã săn bắt hoặc mua được trong tự nhiên. Người nuôi có thể bán cả các loài săn bắt được sau khi tẩy sạch nguồn gốc bằng cách tuyên bố bất hợp pháp rằng, những cá thể đó được nhân giống thương mại trong các trang trại.

Với cơ cấu quản trị và luật định hiện nay, việc quản lý ĐVHD còn nhiều khó khăn do nhiều kẽ hở. Quy trình đăng ký chăn nuôi động vật hoang dã thương mại buộc các chủ trang trại phải liên hệ với rất nhiều tầng nấc của một hệ thống khá phức tạp. Chủ trang trại phải được sự chấp thuận của cả Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Bộ NN&PTNT) và Bộ Tài nguyên và Môi trường (Bộ TN&MT) và tuân theo hai thủ tục khác nhau.

Theo các nhà nghiên cứu, sở hữu giấy phép từ hai cơ quan khác nhau còn chất thêm gánh nặng pháp lý lên các công tố viên - người phải xử lý các vụ kiện những người vi phạm theo các tiêu chuẩn của những cơ quan khác nhau. Mặt khác, sự chồng chéo giữa luật và Nghị định ở Việt Nam khiến các cơ quan thực thi khó hành động và thủ phạm dễ dàng lách luật. Mặt khác, tính phức tạp trong việc xin giấy phép khiến các chủ trang trại có thiện chí không nhận thức đầy đủ các yêu cầu, đã bỏ qua quy trình rườm rà để tham gia vào việc nuôi bất hợp pháp.

Bên cạnh những quy định hiện hành, việc phân cấp thiếu hoàn chỉnh và chồng chéo cũng làm gia tăng cơ hội tham nhũng; cấp giấy phép giả và can thiệp số liệu về quần thể động vật hoang ở cấp địa phương. .

Trở ngại khác trong loại bỏ kẽ hở từ người nuôi là lực lượng kiểm lâm và viên chức nhà nước thiếu kiến thức sinh học. Tình trạng nhầm lẫn về loại động vật có thể được nhân giống, buôn bán, vận chuyển và xuất khẩu hợp pháp diễn ra khá phổ biến. Ngay cả khi lực lượng thực thi thống nhất về những loài nào được bảo vệ, các viên chức hạn chế về kiến thức sinh học và công nghệ có thể không thể phân biệt được ở thực địa động vật hoang dã và động vật nuôi trong các trang trại hoặc trong đánh giá, xem các loài bị bắt thuộc nhóm quý hiếm hay bị đe dọa.

Do người dân làm nông nghiệp,kể cả nuôi động vật hoang dã thu nhập thấp, muốn nâng cao nguồn thu, số đông trang trại nuôi có xu hướng tham gia vào việc buôn bán trái phép động vật hoang dã.

Những việc cần làm từ góc nhìn nghiên cứu
Từ góc nhìn kính kinh tế chính trị trong bảo tồn động vật hoang dã, báo cáo Mở rộng quy mô buôn bán động vật hoang dã ở vùng Mê Công(Scaling back Wildlife trade in the Mekong Delta) đã vận dụng lăng kính chính trị vào nghiên cứu kẽ hở từ người nuôi, tập trung tại Việt Nam và Lào. Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Duke (Hoa Kỳ) đã thể hiện quan điểm nghiên cứu riêng, theo đó, báo cáo đã đưa ra một số khuyến nghị tâp trung trên các mặt sau:

1. Trước hết là, can thiệp thay đổi hành vi nhằm vào người tiêu dùng các sản phẩm động vật quý hiếm để giảm nhu cầu tại Việt Nam;

2. Can thiệp để cải thiện việc thực thi bằng cách hoàn thành mã vạch DNA cho các loài rùa Đông Nam Á cũng như đào tạo các cán bộ thực thi và công tố viên về nhận dạng chính xác rùa bằng cách sử dụng một giáo án rõ ràng, được cấu trúc hợp lý với mục tiêu học tập có thể xác định được;

3. Can thiệp vào chăn nuôi bền vững, đào tạo những người nuôi sinh sản trong các trang trại và xây dựng trách nhiệm pháp lý phù hợp, cho phép những trang trại này được bán một số động vật hoang dã để bổ sung thu nhập.

Để giải quyết nhu cầu cao về rùa, nhóm nghiên cứu đề xuất biện pháp can thiệp thay đổi hành vi để nâng cao nhận thức của các chủ nhà hàng, chủ cửa hàng và người tiêu dùng về sự bất hợp pháp của buôn bán rùa.

Theo các nhà nghiên cứu, bằng cách giải thích về hậu quả của việc tiêu diệt quần thể rùa bản địa và những tác động tiêu cực đến di sản văn hóa Việt Nam, can thiệp này nhằm giảm nhu cầu đối với các sản phẩm rùa. Về lý thuyết, thay đổi này nhằm giảm nhu cầu, dẫn đến tỷ suất lợi nhuận thấp đối với các nhà hàng, từ đó sẽ làm giảm các ưu đãi của họ để bán các sản phẩm rùa.

Thứ hai, nhóm đề xuất một can thiệp thực thi để giải quyết tình trạng thiếu kiến thức pháp lý và sinh học của các cán bộ thực thi và tòa án ở cấp địa phương. Can thiệp thực thi liên quan đến việc giới thiệu một giáo án giảng dạy mới về hình thái và nhận dạng DNA cho các cán bộ thực thi.

Chương trình giảng dạy mới nên được thiết kế để cung cấp các kỹ năng phát hiện nguồn gốc của động vật nuôi và phân biệt giữa các loài và các chi khác nhau. Lý thuyết về sự thay đổi cho can thiệp này là thực thi mạnh mẽ hơn sẽ làm giảm biên lợi nhuận của những kẻ buôn lậu và do đó làm giảm động lực khiến các chủ trang trại phải tham gia vào hoạt động tẩy sạch động vật hoang dã.

Thứ ba, nghiên cứu đề xuất một can thiệp chăn nuôi bền vững để thúc đẩy các chủ trang trại thương mại tham gia vào việc nhân giống động vật thích hợp. Can thiệp này sẽ cung cấp cho người nuôi thiết bị nhân giống phù hợp và kiến thức về kỹ thuật chăn nuôi an toàn và bền vững. Sự thay đổi của can thiệp này là kiến thức tốt hơn về kỹ thuật chăn nuôi và sự sẵn có của thiết bị phù hợp sẽ giảm chi phí nhân giống rùa đến mức rẻ hơn là tẩy rửa bất hợp pháp nguồn gốc hoang dã của chúng.

TS. Lê Thành Ý

 

TS. Lê Thành Ý