Những ngày nửa cuối tháng 8-1945, trong một khoảng khắc “chớp mắt của lịch sử” (chữ dùng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp), cả dân tộc Việt Nam đã đồng lòng, đồng loạt vùng lên trong thời cơ vụt đến, làm nên thắng lợi của một cuộc Tổng khởi nghĩa thành công trọn vẹn, kịp thời và ít đổ máu. Thắng lợi huy hoàng đó là thành quả của 15 năm đấu tranh kiên cường, bất khuất dưới đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông Dương, của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và kính yêu.
Nhạy bén nhận biết những chuyển biến của tình hình thế giới, Đảng đã có những chỉ đạo chuyển chiến lược cách mạng đúng đắn và hiệu quả. Đây là tiền đề quan trọng dẫn tới thắng lợi, giành lại độc lập dân tộc, khai sinh chính quyền của nhân dân đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Thành quả của cuộc cách mạng đó là tiền đề để nhân dân Việt Nam tiếp tục vững bước trên con đường mình đã chọn, cho tới hôm nay và mai sau.
Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ở Đông Dương, chính sách đàn áp của chính quyền thuộc địa đã kết thúc phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ trong những năm 1936 - 1939, chuyển cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam sang một giai đoạn mới.
Hội nghị Trung ương tháng 11-1939 của Đảng (còn gọi là Hội nghị Trung ương 6) nhận định rằng: “Căn cứ vào những sự biến đổi trên quốc tế và trong xứ và sự biến chuyển mới của phong trào cách mệnh thế giới và Đông Dương, Đảng ta phải thay đổi chính sách...” (1). Các đại biểu dự Hội nghị đã thảo luận tài liệu Chính sách mới do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ soạn thảo. Đảng đã nhận thức đúng đắn rằng: “Quyền lợi dân tộc cao hơn hết” - “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập” (2). Cơ sở của sự đúng đắn đó là chính là quan điểm thực tiễn khi tiếp cận chân lý, tìm tòi lý luận.
Sau ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc (ngày 28-1-1941) trực tiếp cùng Trung ương Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam trước những bước ngoặt mà Người đã dự báo. Từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (Hội nghị Trung ương 8) của Đảng họp tại Pắc Bó (Hà Quảng, Cao Bằng) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Dự Hội nghị có các đồng chí: Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên, các đại biểu của Xứ ủy Bắc Kỳ, Xứ ủy Trung Kỳ... Hội nghị Trung ương 8 đã bàn và quyết định những vấn đề quan trọng về chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam trong cuộc vận động giải phóng dân tộc, tiến tới giành chính quyền. Trong tình thế mới của cuộc chiến tranh thế giới đang lan rộng, Đảng đã xác định phải đặt lên trên hết, trước hết nhiệm vụ phản đế, đánh đổ đế quốc thực dân Pháp.
Hội nghị cũng nhận định: Phe phát-xít nhất định sẽ thất bại, phe Đồng minh chống phát-xít chắc chắn sẽ giành thắng lợi; tình hình thế giới, tình hình trong nước sẽ có những biến chuyển theo chiều hướng có lợi cho cách mạng Việt Nam: Liên Xô và các nước Đồng minh sẽ chiến thắng chủ nghĩa phát-xít, chính quyền của phát-xít Nhật lung lay; nhân dân ta bị bọn thực dân, phát-xít xô đẩy vào thảm họa diệt vong sẽ bước vào đường khởi nghĩa vũ trang và giành thắng lợi bằng một cuộc tổng khởi nghĩa. Phân tích xu hướng phát triển của tình hình thế giới và trong nước, Đảng cho rằng tình hình thế giới chuyển biến sẽ làm cho những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương càng chín muồi: “…một khi tình thế đã đến chân, quần chúng nhất định phải đứng dậy chống lại quân giặc. Đến lúc đó, cả thế giới như một nồi nước sôi, cách mạng Đông Dương sẽ có một bước phát triển nhảy vọt để dọn đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa mạnh mẽ” (4).
Từ Hội nghị Trung ương 8, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng xác định rõ: “Khởi nghĩa là công việc của toàn dân ta, không phải của riêng Việt Minh”. Đây chính là điểm mấu chốt, có tác dụng định hướng cho cuộc khởi nghĩa vũ trang mang tính toàn dân rộng rãi, khởi nghĩa toàn dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám 1945. Cùng với phương thức tiến hành khởi nghĩa toàn dân, Đảng chủ trương từ Khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa, từ đó khẳng định hình thái khởi nghĩa ở Việt Nam: “Mai đây, cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Hoa xoay ra hoàn toàn có lợi cho cuộc cách mạng Đông Dương thắng lợi thì lúc đó với một lực lượng sẵn có ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho cuộc tổng khởi nghĩa to lớn” (5).
Khởi nghĩa từng phần là tiền đề để Tổng khởi nghĩa thành công. Khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa là hình thái vận động đặc thù của cuộc khởi nghĩa giành độc lập cho dân tộc Việt Nam được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc phát hiện, được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 và được triển khai sâu rộng, sáng tạo trong thực tiễn cách mạng ở các địa phương trong cao trào tiền khởi nghĩa.
Hội nghị Trung ương 8 của Đảng quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh - gọi tắt là Mặt trận Việt Minh - nhằm mục đích đánh Pháp, đuổi Nhật giành độc lập tự do cho dân tộc. Mặt trận Việt Minh nêu rõ hai nhiệm vụ cốt yếu trong Chương trình của mình là:
“1- Làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập,
2- Làm cho dân tộc Việt Nam được sung sướng tự do”.
Đặt nhiệm vụ đấu tranh giành độc lập lên hàng đầu, coi quyền lợi dân tộc là tối cao, Đảng đã đáp ứng đúng nguyện vọng thiêng liêng, cấp bách nhất của toàn dân tộc. Mặt trận Việt Minh tập hợp mọi lực lượng, các tổ chức và cá nhân, các giai cấp, tầng lớp trong xã hội cùng nhau thực hiện mục tiêu chung - “cùng nhau mưu cuộc giải phóng và sinh tồn”. Cứu quốc đã trở thành khẩu hiệu chung của toàn dân tộc. Cứu quốc cũng là tên của các đoàn thể thành viên của Việt Minh (Công nhân Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc, Nông dân Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Văn hóa Cứu quốc,...). Thông qua Mặt trận Việt Minh, Đảng đã phát huy đầy đủ vai trò, ảnh hưởng của mình đối với nhân dân trong sứ mệnh lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Hội nghị Trung ương 8 khẳng định: “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang” và chủ trương: Trên cơ sở khối đại đoàn kết toàn dân, mở rộng và xây dựng lực lượng chính trị vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên làm nòng cốt tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang. Lực lượng quân sự của cách mạng được xây dựng từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn, từ tự vệ cứu quốc đến tiểu tổ du kích rồi phát triển thành đội du kích tập trung (du kích thoát ly) tiến lên thành lập các đơn vị bộ đội chính quy.
Trong bản Chỉ thị này, Người chỉ rõ: “...Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, cho nên trong khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện. Đội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ trang của các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được làm cho các đội này trưởng thành mãi lên... Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam” (6).
Những luận điểm trong bản Chỉ thị cũng là những luận điểm cơ bản, có giá trị định hướng, chỉ đạo đó về quân đội nhân dân và chiến tranh nhân dân không chỉ trong giai đoạn đấu tranh giành chính quyền mà có giá trị lâu dài trong cả thời kỳ tiến hành kháng chiến và chiến tranh cách mạng sau này.
Cho đến ngày Đảng phát lệnh Tổng khởi nghĩa, lực lượng vũ trang cách mạng đã có khoảng 5.000 chiến sĩ. Đây là chỗ dựa đầy tin tưởng cho lực lượng chính trị của quần chúng. Trong cuộc vận động giải phóng dân tộc (1941 - 1945), nhiều căn cứ địa cách mạng đã ra đời: Căn cứ địa Cao Bằng - Bắc Kạn, căn cứ địa Bắc Sơn - Vũ Nhai; căn cứ địa, chiến khu Hòa - Ninh - Thanh (ở vùng tiếp giáp giữa ba tỉnh Hòa Bình, Ninh Binh, Thanh Hóa); căn cứ địa, chiến khu Đông Triều - Chí Linh (Hải Dương); căn cứ địa Ba Tơ sau phát triển thành hai căn cứ địa liên hoàn Vĩnh Sơn - Núi Lớn (Quảng Ngãi); các căn cứ Đồng Tháp Mười, U Minh ở Nam Bộ... Nhiều căn cứ trở thành chiến khu, khu giải phóng. Hoạt động của lực lượng vũ trang chính quy tập trung, của các đội du kích, của các đội tự vệ tuyên truyền bán vũ trang... diễn ra sôi nổi, rộng khắp trong Khu giải phóng Việt Bắc, ở các chiến khu và một số thành phố thị xã trong cao trào Kháng Nhật cứu nước tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy khởi nghĩa từng phần ở nhiều nơi.
Các đô thị là những trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế, là nơi tập trung cơ quan đầu não của bộ máy thống trị của địch. Đảng chú trọng xây dựng cơ sở chính trị trong các An toàn khu (ATK) của Trung ương ở ngoại vi thành phố, phát triển cơ sở quần chúng ở đô thị. Trong giai đoạn đấu tranh tiến tới giành chính quyền, Đảng đã có nhiều nghị quyết đề cập chủ trương và biện pháp xây dựng và phát triển cơ sở chính trị ở đô thị, lấy đó làm chỗ dựa vững chắc để phát triển lực lượng, phát động các tầng lớp nhân dân ở đô thị đẩy mạnh đấu tranh bằng nhiều hình thức và mức độ phù hợp trong tình thế chung của cả nước.
Trong thế thua trận, ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương. Khi tiếng súng “Nhật, Pháp bắn nhau” còn đang nổ, Ban Thường vụ Trung ương Đảng (mở rộng) đã họp và nhận định thời cơ khởi nghĩa đang đến rất gần: “Những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chín muồi”. Hội nghị đã ra bản Chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (ngày 12-3-1945). Trên cơ sở nhận định và dự đoán các bước phát triển của tình hình, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương “phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa”. Những khẩu hiệu được nêu cao là: Đánh đuổi phát-xít Nhật, Thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Mặt trận Việt Minh, trong cao trào Kháng Nhật cứu nước tiến tới Tổng khởi nghĩa, các hình thức chính quyền cách mạng đã xuất hiện dưới nhiều hình thức. Những hình thức chính quyền cách mạng của nhân dân trong Khu giải phóng Việt Bắc và các chiến khu chống Nhật khắp cả nước dù còn sơ khai đã hoạt động hiệu quả.
Các tổ chức đoàn thể cứu quốc là thành viên trong Mặt trận Việt Minh: Công nhân Cứu quốc, Nông dân Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc, Văn hóa Cứu quốc và cả các tổ chức Thanh niên Tiền phong, Thanh niên tiền tuyến... đã thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, tập hợp thành đội ngũ, đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những hoạt động của các đội tuyên truyền xung phong ngày càng sôi nổi và táo bạo, gây tiếng vang rộng rãi trong quần chúng, đưa khí thế cách mạng dâng cao trong những ngày sôi sục chuẩn bị khởi nghĩa. Lực lượng địch ở các đô thị bị cô lập trong bầu không khí cách mạng đang ngày càng “nóng” dần lên.
Trong giai đoạn 1941 - 1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nỗ lực tìm cách đặt mối liên hệ với lực lượng Đồng minh chống phát-xít, để cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam hòa nhập và trở thành một phần trong cuộc đấu tranh chung của toàn nhân loại. Những tiếp xúc của Người với lực lượng Mỹ được thiết lập từ tháng 3-1945, sau sự kiện trung úy phi công William Shaw được Việt Minh cứu thoát, ngày 2-11-1944, và đưa trở lại Côn Minh trao trả cho Mỹ. Ở Côn Minh, Hồ Chí Minh đã gặp những người chỉ huy lực lượng Mỹ ở đây và đã nhận được sự ủng hộ cho cuộc kháng chiến chống Nhật của Việt Minh. Việc hỗ trợ trang bị và huấn luyện chiến đấu cho một lực lượng du kích trên dưới 100 người địa phương trong vùng núi rừng Việt Bắc không giữ vai trò đáng kể về mặt quân sự trong việc kết thúc chiến tranh với Nhật ở Đông Dương. Nhưng điều quan trọng hơn của những mối quan hệ với lực lượng Mỹ mà Hồ Chí Minh chủ trương thiết lập chính là tăng thêm lực lượng ngoại giao, uy thế chính trị của Việt Minh để giành độc lập cho dân tộc và tạo ra những tiền đề cho việc xác lập vị thế của nước Việt Nam độc lập trên trường quốc tế sau này.
Trong tất cả các cuộc cách mạng, đặc biệt là cách mạng giải phóng dân tộc, ngoài việc chuẩn bị lực lượng cách mạng vững mạnh về mọi mặt, việc nhận định chính xác tình hình để chớp thời cơ khởi nghĩa thuận lợi nhất là yếu tố hết sức quan trọng. Vấn đề xác định thời cơ, thậm chí có thể coi là yếu tố quyết định sự thành bại. Cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân trong Cách mạng Tháng Tám 1945 ở Việt Nam là minh chứng sinh động về sự nhạy bén trong nhận định tình hình, dự kiến thời cơ và chỉ đạo chớp thời cơ lịch sử để khởi nghĩa thành công của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Theo chỉ đạo của Người, Thường vụ Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã quyết định thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc và nhanh chóng phát đi bản Quân lệnh số 1 - Lệnh Tổng khởi nghĩa.
Tháng 5-1945, phát-xít Đức, Ý đã bại trận trên chiến trường châu Âu. Ba tháng sau đó, ở châu Á, phát-xít Nhật đang trên đường thất bại và sụp đổ. Dù đang ốm nặng ở Tân Trào, Hồ Chí Minh vẫn chỉ thị cho các đồng chí: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập” (7).
Trưa ngày 15-8-1945 (giờ Tokyo), Nhật Bản tuyên bố đầu hàng Đồng minh trong khi Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương đang họp càng hối thúc Đảng kịp thời đưa ra những quyết sách, quyết định những chủ trương lớn trong đối nội, đối ngoại của cách mạng Việt Nam.
Ngày 16-8, Đại hội Quốc dân Tân Trào họp và bàn ngay những vấn đề then chốt. Đại hội tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương, quyết định thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng “cũng như một Chính phủ lâm thời của ta lúc này” (8). Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Dân tộc giải phóng.
Toàn dân tộc đã chọn đúng thời cơ lịch sử để kiên quyết và kịp thời giành lại độc lập. Chỉ trong chưa đến 15 ngày, Tổng khởi nghĩa đã nhanh chóng thành công trên phạm vi cả nước. Trong những ngày lịch sử sôi động đó, toàn dân Việt Nam đã đồng lòng, đồng loạt nổi dậy với tinh thần phấn khởi cách mạng lạ thường, với một khí thế mãnh liệt chưa từng thấy, kiên quyết đập tan mọi thế lực phản động để giành lại độc lập cho dân tộc, giành lấy tự do cho nhân dân. Khởi nghĩa giành chính quyền thành công, nhân dân Việt Nam đã thực sự nắm giữ cương vị người chủ đất nước để “đón tiếp” quân Đồng minh vào Việt Nam thu vũ khí của lực lượng Nhật ở đây và sẵn sàng đối phó với mọi thế lực thù địch trên vị thế của một quốc gia độc lập, có chủ quyền.
Cách mạng Tháng Tám 1945 ở Việt Nam đã bùng nổ và thành công đúng thời cơ lịch sử. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời nằm ngoài mọi dự tính và dàn xếp của các nước lớn sau Hội nghị Potsdam (tháng 8-1945), cũng nằm ngoài mọi tính toán của những kẻ theo chủ nghĩa thực dân ở Pháp.
Chính quyền cách mạng ra đời “không đồng minh, không tiền, hầu như không vũ khí” - như nhận xét của Pignon, cố vấn chính trị của Cao ủy Pháp Đ’ Argienlieu tại Đông Dương. Nạn đói, nạn dốt, tài chính kiệt quệ cùng với nạn ngoại xâm đã đặt vận mệnh của độc lập dân tộc trước nguy cơ Còn - Mất. Nhiệm vụ nóng bỏng đặt ra sau khi giành được chính quyền là phải tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân làm hậu thuẫn vững chắc cho Chính quyền cách mạng. Bảo vệ được Chính quyền cách mạng mới có thể thực hiện được những mục tiêu cấp bách cũng như lâu dài: giữ vững nền độc lập, đem lại đời sống no ấm cho nhân dân. Sự vững chắc của Chính quyền cách mạng là điều kiện bảo đảm, là công cụ thúc đẩy cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc non trẻ vừa mới giành lại được của nhân dân Việt Nam đi đến thắng lợi.
Trong những năm tháng “nước sôi lửa bỏng”, vận mệnh dân tộc trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Dân tộc trên hết - Tổ quốc trên hết đã trở thành khẩu hiệu đoàn kết, tập hợp khối lực lượng quần chúng to lớn ủng hộ Chính phủ cách mạng. Khối đại đoàn kết toàn dân được xây dựng rộng rãi, không bỏ sót một nguồn lực nào đã phát huy sức mạnh to lớn. Kể cả những người không cộng sản, đồng bào Việt Nam ở nước ngoài, những người đã từng làm việc dưới chế độ cũ, những người thuộc giới quan lại, hoàng tộc phong kiến, cả những người tưởng như đã nằm dưới đáy của xã hội xưa... tất cả đều hướng về cuộc đấu tranh của dân tộc và bằng cách này hay cách khác đóng góp phần mình cho cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng thành công Chính quyền cách mạng.
Bài học về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự cường để xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng từ những năm tháng hào hùng đó vẫn mang nhiều giá trị.
Sau cuộc tổng tuyển cử tự do và dân chủ đầu tiên trong lịch sử dân tộc, Chính phủ cách mạng lâm thời đã trở thành Chính phủ hợp hiến, do dân bầu, bao gồm nhiều thành phần, đại diện cho các tầng lớp xã hội, đấu tranh cho quyền lợi của cả dân tộc Việt Nam. Chính phủ cách mạng thu hút được sự ủng hộ của toàn dân, được toàn dân bảo vệ vì nó hợp với lòng dân. Buổi tối ngày 2-9-1946, tại Paris, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự lễ kỷ niệm Quốc khánh lần đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hội liên hiệp Việt kiều và Hội hữu nghị Pháp - Việt tổ chức. Trong buổi lễ đặc biệt đó, Người xúc động nói: “Chính là sự đoàn kết, đoàn kết hoàn toàn và không gì phá vỡ nổi của toàn thể nhân dân chúng ta đã khai sinh ra nước Cộng hòa của mình” (10).
Với cả nhân loại, bản Tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam là tiếng chuông báo sự khởi đầu tan rã hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ - một hệ thống gắn liền với xâm lược và nô dịch như một vết đen trong lịch sử loài người. Cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam thắng lợi cũng tạo niềm tin và hy vọng, động viên tiếp sức cho các dân tộc còn đang bị áp bức vùng lên đấu tranh giành độc lập cho mình.
Với nhân dân Việt Nam, bản Tuyên ngôn độc lập đánh dấu kỷ nguyên mới của dân tộc: Kỷ nguyên Độc lập - chấm dứt ách nô lệ thực dân và Tự do - chấm dứt chế độ phong kiến. Đó là sự xác lập lần đầu tiên ở Việt Nam một nền dân chủ bằng sự lựa chọn thể chế Dân chủ Cộng hòa - một thành tựu phổ quát của nền chính trị nhân loại. Cách mạng Tháng Tám 1945 là cuộc cách mạng khẳng định quyền con người. Trích “những lẽ phải không ai chối cãi được” trong hai bản Tuyên ngôn bất hủ của cách mạng Hoa Kỳ và cách mạng Pháp, bản Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên đọc ngày 2-9-1945 từ quảng trường Ba Đình (Hà Nội) đã khẳng định quyền của con người - cũng chính là nền tảng quyền của dân tộc.
Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một cuộc cách mạng nhân dân. Đó là cuộc cách mạng của nhân dân, do nhân dân tiến hành và vì lợi ích của nhân dân, để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, đem lại quyền làm người cho mỗi người dân. Nhân dân vừa là động lực vừa là mục tiêu giải phóng của cách mạng. Sau khi hoàn thành sứ mệnh đấu tranh giành độc lập dân tộc, nhân dân Việt Nam tiếp tục xây dựng đất nước Việt Nam phát triển. Khi chính quyền cách mạng đã là của nhân dân, nhiệm vụ đặt ra rất nặng nề là: Phát triển kinh tế và văn hóa, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, thúc đẩy sự phát triển của xã hội, cuối cùng nhằm đến mục tiêu cụ thể là vì hạnh phúc của con người. Vì vậy mà nhân dân Việt Nam chấp nhận lựa chọn con đường tiến lên đó.
Đánh giá về một ưu điểm lớn của Cách mạng Tháng Tám so với cách mạng ở một số nước khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Cách mạng ở đâu thành công cũng phải đổ máu nhiều. Có nước phải chặt đầu vua. Có nước đồng bào chia đảng phái chém giết nhau liên tiếp trong bao nhiêu năm. Nước ta vua tự thoái vị, các đảng phái không có mấy. Trong một thời gian ngắn, các giai cấp đoàn kết thành một khối, muôn dân đoàn kết để mưu hạnh phúc chung là nước đến hoàn toàn độc lập và chống được giặc xâm lăng, đuổi thực dân tham ác ngoài bờ cõi”
Từ đầu tháng 7-1946, khi các cuộc hội đàm chính thức Việt - Pháp đang diễn ra trong lâu đài Fontainebleau, tại Paris cũng diễn ra những hoạt động không mệt mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh để bạn bè thế giới, trước hết là Chính phủ và các tầng lớp nhân dân Pháp, hiểu rõ thiện chí hòa bình và nguyện vọng nóng bỏng của nhân dân Việt Nam là Độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Trong thời gian hơn ba tháng, với tư cách là thượng khách của nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều cuộc tiếp xúc với các đại biểu của Chính phủ Pháp, nhiều tổ chức đoàn thể và cả các cá nhân. Trong tất cả những cuộc tiếp xúc đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều nêu rõ nguyện vọng chân thật của nhân dân Việt Nam là mong muốn giữ mối quan hệ Việt - Pháp “không có tiếng súng”. Khi đến thăm khu di tích lịch sử ở Normandi, Người đã lấy bàn tay bịt miệng khẩu đại bác như một biểu tượng của tinh thần: “Giữ gìn hòa bình! Ngăn chặn chiến tranh!”. Đó chính là thông điệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt nhân dân Việt Nam gửi tới nhân dân Pháp và những người cầm quyền Pháp khi đó.
Mùa đông năm 1946, “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Toàn thể dân tộc Việt Nam theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đứng lên kháng chiến bảo vệ nền độc lập dân tộc. Trải qua nhiều thử thách hy sinh, quân và dân Việt Nam đã đi qua “chín năm kháng chiến trường kỳ”, đã làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Đó là mốc son chói lọi, là niềm tự hào dân tộc. Đây là một trong những đỉnh cao chói lọi, kỳ tích vẻ vang trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, xứng đáng được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa trong thời đại Hồ Chí Minh.
Điện Biên Phủ không chỉ là sự kết thúc thắng lợi một cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhân dân Việt Nam mà còn là sự khởi đầu cho phong trào cách mạng giải phóng dân tộc mạnh mẽ của nhân dân các nước thuộc địa đứng lên đấu tranh thoát khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân trong lịch sử thế giới cận - hiện đại.
Điện Biên Phủ là một dấu mốc lịch sử khẳng định ý chí và sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Chiến thắng này được kế thừa thành quả của Cách mạng Tháng Tám 1945 và là tiền đề cho thắng lợi của cuộc Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sau này.
Đế quốc Mỹ vào thay Pháp ở miền nam, thực thi chính sách chia cắt lâu dài nước Việt Nam, muốn biến miền nam thành một quốc gia riêng biệt, thân Mỹ. Lịch sử đặt ra yêu cầu có một đường lối chiến lược cách mạng đúng đắn để đưa cách mạng Việt Nam tiến lên phù hợp với tình hình mới và xu thế vận động của thời đại.
Tháng 9-1960, Đại hội Đảng lần thứ III đã xác định nhiệm vụ và đường lối thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền trong giai đoạn mới:
• Đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc.
• Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Đường lối này xuất phát từ thực tiễn và thể hiện ý chí độc lập thống nhất của cả dân tộc Việt Nam, bất chấp những âm mưu chia cắt, những toan tính của các thế lực khác phía sau cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Mọi người dân Việt Nam, cả ở miền bắc và miền nam chưa bao giờ và không bao giờ coi miền nam Việt Nam là một quốc gia. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một - chân lý đó không bao giờ thay đổi.
Từ tháng 7-1954, Mỹ can thiệp ngày càng sâu vào miền nam. Từ tháng 3-1965, Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh vào trực tiếp tham chiến và dùng không quân, hải quân đánh phá khốc liệt miền bắc Việt Nam. Đứng trước cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo, ý chí không khuất phục và quyết tâm chiến đấu bảo vệ độc lập tự do của nhân dân Việt Nam càng được thổi bùng mạnh mẽ, cô đọng trong chân lý được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên trong “Lời kêu gọi” ngày 17-7-1966: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Đáp lời kêu gọi của Người, hàng triệu thanh niên đã “xẻ dọc Trường Sơn” đi cứu nước bằng “Con đường huyền thoại Hồ Chí Minh” - con đường chiến lược nối liền nam bắc được mở từ ý chí và lòng kiên cường, từ bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam. Miền bắc dồn sức chi viện cho miền nam - “Tất cả vì miền nam ruột thịt”, “Tất cả cho tiến tuyến”, “Tất cả để để chiến thắng”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Xe chưa qua, nhà không tiếc”…
Quân và dân miền nam chiến đấu anh dũng kiên cường, đánh thắng các chiến lược chiến tranh, làm đảo lộn thế chiến lược của Mỹ đã buộc Mỹ phải chấm dứt ném bom miền bắc Việt Nam từ phía bắc vĩ tuyến 20 và từ ngày 13-5-1968, phải ngồi vào bàn đàm phán và từng bước “xuống thang” chiến tranh Việt Nam. Hiệp định Paris được ký ngày 27-1-1973 là thắng lợi ngoại giao quan trọng đã mở đường cho thắng lợi cuối cùng. Ngay sau Hiệp định, chúng ta đã sớm chuẩn bị chiến lược giải phóng miền nam, cả về thế và lực.
Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến anh hùng và vẻ vang để lại nhiều bài học quý: Đó là những bài học: “Kiên định quyết tâm, quyết đánh và quyết thắng” và “Đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ”. Đó là những bài học về “Sử dụng nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân sáng tạo” và “Tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc”. Đó là những bài học về “Xây dựng căn cứ địa, hậu phương kháng chiến vững chắc” và “Đoàn kết, liên minh với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia, đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh thời đại”. Những bài học này còn mang nhiều ý nghĩa để chúng ta phát huy trong những giai đoạn sau.
Sau tháng 4-1975, nhân dân Việt Nam không được hưởng một nền hòa bình trọn vẹn và bền vững. Cả dân tộc vẫn phải tiếp tục gồng mình chiến đấu bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Với bao gian khổ hy sinh, nhân dân Việt Nam đã kiên cường bảo vệ vững chắc hai tuyến biên giới phía tây nam và phía bắc, đồng thời làm nhiệm vụ quốc tế cao cả, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng.
Trong công cuộc dựng xây đất nước sau chiến tranh, những khuyết điểm của mô hình, cơ cấu kinh tế không phù hợp, các nguồn lực bị chiến tranh tàn phá nặng nề cùng với sự nôn nóng duy ý chí trong việc điều hành nền kinh tế đã dẫn Việt Nam đến cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội sâu sắc. Đại hội lần thứ VI (năm 1986) của Đảng đề ra đường lối Đổi mới, mạnh dạn và nhất quán đổi mới trên lĩnh vực kinh tế, từng bước đổi mới hệ thống chính trị, đưa đất nước thoát khỏi khó khăn, khủng hoảng để phát triển về mọi mặt. Đảng Cộng sản Việt Nam từ chỗ vấp sai lầm, đã nhận thức được tình thế và tìm được giải pháp thuận theo quy luật để vượt qua khủng hoảng, chuyển nền kinh tế vào thế ổn định và phát triển đúng hướng, đạt nhiều thành tựu trong hoàn cảnh khó khăn.
Cùng với việc đổi mới kinh tế, Việt Nam cũng đạt những thành tựu ngoại giao, đối ngoại xuất sắc - Phá thế bao vây cấm vận, mở rộng nhiều mặt các quan hệ ngoại giao song phương và đa phương, tham gia nhiều diễn đàn khu vực và thế giới, mở ra những cơ hội hợp tác để cùng phát triển.
Qua gần 35 năm Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn. Đất nước đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình và tiếp tục phát triển theo hướng công nghiệp hiện đại. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa - xã hội có bước phát triển; đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi theo chiều hướng tốt lên. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng cao. Chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được bảo vệ vững chắc. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Những thành tựu to lớn đó được bắt đầu từ cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 trong mùa thu đánh dấu bước ngoặt lịch sử của dân tộc.
Những thành quả của cuộc cách mạng được giữ vững là cơ sở tiền đề cho những thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam trên chặng đường 75 năm qua. Hôm nay, những thành quả và thắng lợi đó tiếp tục tạo tiền đề để Việt Nam tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ hơn trong bối cảnh thế giới mới đầy biến động.