PGS.TS Đàm Khải Hoàn nguyên trung sỹ lái xe BTL Thiết giáp và Ký sự “Đường ra trận” - Phần 1

Biên tập viên

Đã gần nửa thế kỷ trôi qua, ký ức về chiến tranh, ký ức về năm tháng hào hùng của đất nước chưa nguôi ngoai trong tôi. Nhân dịp này xin được chia xẻ câu chuyện đường ra trận của tôi để tặng bạn bè.

Đầu tháng 3 năm 1975, như thường lệ, vào mỗi buổi sáng, tôi đánh xe ra téc xăng để lĩnh xăng đi công tác. Đang lĩnh xăng thì có tiếng đội trưởng Nguyễn Thế Chì gọi: “Hoàn vào nhận lệnh”. Tôi để xe tại téc xăng vào nhà gặp Đội trưởng thấy nói giọng nghiêm trang quá: “Đồng chí bàn giao xe để nhận xe mới đi B dài!”.Tôi trả lời “Rõ”, nhưng quả thực hơi choáng vì thoáng nghĩ đến bao hình ảnh những người đi B dài trước đây, 5 năm, 10 năm vẫn chưa được về. Nhiều người trở về là cái giấy báo tử hay da tái môi thâm ốm yếu do hậu quả sốt rét, đói và gian khổ. Rồi thoáng nghĩ đến gia đình đến người thân và bạn bè. Tôi hỏi đội trưởng: “Thế em không được về phép à?”. Anh ấy nói đây là lệnh đột xuất, nên bây giờ em đi lĩnh quân trang, để anh đi lĩnh xe cho, về chuẩn bị đêm nay phải xuất phát. Nghe thế tôi cứ lặng người đi, nên lúc đi lĩnh quân trang cứ như cái máy, họ phát gì tôi ôm hết mang về để trên giường. 

img-4220-1742892966.jpeg

Vừa sắp đồ tôi vừa nghĩ làm thế nào mà báo về nhà biết mình đi B. Khi sắp xếp đồ mới thấy nhiều quá. Trong đống đồ được phát tôi thấy có 03 bộ Tô Châu, tôi mang đi 02 dành 01 gửi về nhà, mũ cối có rồi hầu như không dùng: để lại. Mì chính cánh to 01 gói không biết mấy lạng: gửi về. Cái gì đã có tôi dùng cái cũ, còn cái mới gửi về…Trong gói đồ tôi thấy có một cái túi ni lông to. Tôi tưởng áo mưa chui vào mãi không được mới hỏi để làm gì? Một anh nói nhẹ như lông hồng: “Cái đó nhỡ mày chết thì cho vào đó gói đem đi chôn thế mà không biết à?”. Tôi nghe lạnh cả người vàmong đừng phải chui vào túi ấy! Nhưng thực ra các lính cũ trêu tôi thôi, chứ túi ấy để đựng đồ khi phải bơi vượt sông cho khỏi ướt. Sắp đồ gọn gàng, đồ mang đi cho vào ba lô, đồ gửi về cho vào hòm đạn đóng đinh cẩn thận rồi dặn Phong - đồng hương Thái Nguyên: “Lúc nào về Thái Nguyên chở than mày mang về nhà cho tao, bảo tao đi B dài rồi, chả biết bao giờ về đâu. Mày nhớ dặn bà tao đừng sợ, thế nào nó cũng về!”. Nhưng không ngờ chỉ mấy hôm sau Phong cũng nhận lệnh đi B như tôi, nên hòm đồ thất lạc và gia đình tôi cũng không biết tin tôi đi chiến trường. 

img-4219-1742892967.jpeg

Sau khi sắp đồ xong, tôi ra nhận xe và cùng Điệp (được phân công phụ lái cho tôi) bảo dưỡng và chuẩn bị xe. Xe mới bảo dưỡng niêm cất để kho lấy ra phải thay dầu mỡ hết. Rồi kiểm tra các thứ  từ hệ thống điện, xăng, gầm… Hỳ hục lem luốc suốt cả ngày đến gần 9h tối mới xong. Tôi nổ máy, đánh xe lên cửa nhà ăn Bộ tư lệnh, mọi người đã chờ ở đó rồi. Đến lúc này tôi mới biết đoàn công tác sẽ gồm 3 xe: 2 xe  Bắc Kinh chở Tư lệnh và các trưởng phó phòng ban do Nam và Hòa lái, 1 xe tải Vọt Tiến do tôi và Điệp lái chở số sĩ quan còn lại cùng 1 tổ thông tin 15w và 02 cơ yếu. Đúng 12 giờ đêm xe xuất phát, đoàn xe lặng lẽ tiến về Hà Nội. 

img-4215-1742892967.jpeg

Sáng hôm sau cả đoàn tập trung ở khu đất trống ở cổng trạm 66 Bộ quốc phòng để nghe Tư lệnh binh chủng Đào Huy Vũ – trửởng đoàn phổ biến. Thủ trưởng dặn dò nhiều nhưng tôi chỉ nhớ nhất câu: “Bao giờ giải phóng xong miền nam chúng ta mới được về!”. Tôi miên man nghĩ: “Bao giờ, bao giờ? mình mới 20 tuổi chắc 30 tuổi được mới ra. Người ra, hay nắm xương tàn như bao đồng đội khác đã ra”… Đang suy nghĩ thì giật mình nghe Điệp bảo “đi thôi Hoàn ơi” thế là nổ máy tiến. Về sau này tôi mới biết chúng tôi tham gia trong đoàn của Bộ chỉ huy cánh quân Duyên Hải do tướng Lê Trọng Tấn chỉ huy, trong đó có Lữ đoàn xe tăng 203. 

img-4218-1742892966.jpeg

Đoàn xe chúng tôi lặng lẽ rời Hà Nội, thẳng hướng nam mà đi. Trên đường phải chờ đợi một số bộ phận nên mới đến gần Phủ Lý trời đã tối. Đoàn nghỉ đêm tại nhà Điệp ở Duy Tiên, bên dòng sông Đáy. Ngủ đêm tại đây vì một phần là trời gần tối, lý do nữa là các thủ trưởng tâm lý muốn cho Điệp (mới lấy vợ) ngủ với vợ thêm một đêm. Tối hôm ấy ăn cơm xong tôi và Điệp ra sông tắm. Nước sông mát rượi, vùng vẫy thoải mái. Bơi một lúc hai thằng ngồi ven bờ nói chuyện. Tôi nói vui không hiểu mình có còn được quay về tắm trên dòng sông quê này lần nữa không nhỉ? Điệp không nói gì chỉ yên lặng. 
 

img-4216-1742892966.jpeg

Sáng hôm sau chuẩn bị đi, vợ Điệp ra xe bảo tôi: “Em nghe anh Điệp bảo anh đi B nhưng không được về nhà, không có tiền, nhà em không có nhiều cho anh 10 đồng để ăn quà dọc đường”. Tôi cảm động quá, vì tôi có được ai cho tiền như thế này đâu. Tôi cảm ơn và nghĩ đúng có vợ sướng thật! 

img-4221-1742892966.jpeg

Đoàn xe tiếp tục đi, tối tiếp theo ngủ ở bờ bắc cầu Hàm Rồng để ông Trưởng một cán bộ trong đoàn về tranh thủ. Qua Thanh Hóa bắt đầu đến Nghệ An tốc độ hành quân giảm dần do chờ cầu phà. Phà Bến Thủy lúc bấy giờ rất nhỏ nên xếp hàng lâu. Qua Hà Tĩnh hai bên đường chi chít hố bom. Chiều tà hôm đó, chúng tôi đến phà  Gianh (Quảng Bình) phải dừng chờ. Nhìn đoàn xe dài dằng dặc, cỡ phải vài cây số, tôi hỏi cô thanh niên xung phong điều vận ở phà: “Liệu bao giờ đến lượt xe tôi?”. Cô ta bảo: “Nếu nhanh thì cũng phải đến chiều mai”. Chúng tôi không chịu nên cùng với xe tải đoàn Q - chở lính đặc nhiệm của Bộ tổng tham mưu đi bảo vệ đoàn phối hợp với nhau, chèn lách để đoàn xe bám theo suốt đêm đến sáng thì chúng tôi cũng được lên phà. Chiều hôm đó nghỉ ở Quảng Bình, nhóm thông tin say xe rũ rượi, không nấu được cơm. Vừa lái xe xong chưa được nghỉ tôi vẫn vui vẻ vô tư đi nấu cơm. Hôm đó cũng vừa tổng kết con lợn ướp muối nhà bếp cấp mang theo. Dao thớt không có tôi thả cả cái chân dò vào nồi bắp cải, đến khi ăn mọi người nhường nhau do nó to, không ai ăn, tôi cầm cả cái chén hết. Lúc bấy giờ ăn khỏe, làm việc cũng khỏe, lái xe dòng dã không cảm thấy mệt. 

img-4221-1742892966.jpeg

Ngày hôm sau vượt qua phà Quán Hầu rồi lên phía tây qua sông Bến Hải bằng cầu treo. Qua sông là đất Quảng Trị, chúng tôi theo đường 9 tiến về phía Tây rồi bắt vào đường 14 Đông Trường Sơn. Tối ngủ mà hai cánh tay tôi mỏi dừ do đường 9 ổ gà ổ voi quá nhiều, lái xe phải lượn lách liên tục. Từ khi đi vào đường 14 trời đổ mưa dầm, đường trơn, dốc cao, vực sâu… Tôi vận dụng các bài học đi ô tô trên đường trơn, quàng xích hai bánh sau, cài cầu, cài súp rón rén đi. Dốc cao, lên dốc lâu, đi chậm, nước máy sôi sùng sục, xe càng lên cao càng ì ạch, thỉnh thoảng phải nghỉ cho mát máy. Lên đèo đã khổ nhưng xuống đèo còn khổ hơn. Đường đất đỏ trơn như đổ mỡ. Xe tôi toàn muốn quay ngang, ra sát mép vực. Phải xuống đào, chỉnh cho cân xe rồi mới đi. Đi một quãng lại dừng, lại đào bới. Dép đúc của tôi tụt hết quai, quần dài bẩn, dính toàn bùn, người mệt rũ nên về sau tôi ngồi lái chỉ mặc mỗi quần đùi, áo cộc tay, vai vắt khăn mặt để cần thiết là xuống xe đào bới ngay cho nhanh. Lúng ta lung túng, nên đi một ngày chỉ được hai, ba chục cây số. Một lần đang đào bới ở lưng chừng đèo thì một đoàn xe Hồng Hà của đoàn 559 đi qua. Nhìn thấy tôi họ cười: “Đúng là lính mới, xe mới, đi thế sao đến đích được”. Thế rồi họ bảo tôi tháo hết xích lốp ra, bỏ cầu súp ra, đi số 1-2 thôi, tay lái là chính, đều ga, lái bám vách núi, có va vào núi cũng vô tư, đừng giữ xe. Tôi làm theo, đầu tiên hơi run, sau dần vũng tin hơn mà lái. Có hôm đoàn nghỉ chân tại một chân đèo. Nhìn xung quanh rừng Trường Sơn bao la, cây cổ thụ cạnh đường gốc to đến nỗi mấy thanh niên chúng tôi dang tay ra thành vòng tròn mà không kín. Đang đùa vui thì gặp hai bố con người Vân Kiều đi chợ. Ông bố dắt con lợn con như dắt chó. Cô con gái gùi sọt to toàn chuối, đu đủ chín…đặc biệt là không mặc áo chỉ có váy thôi, ngực nhô cao. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy ngực một cô gái trẻ, nửa muốn nhìn, nửa xấu hổ. Trong khi mấy thủ trưởng có kinh nghiệm trao đổi với đồng bào. Đổi một hộp sữa bột Trung Quốc lấy cả sọt hoa quả. Thủ trưởng Đa nói với cô con gái: “Có thích bộ đội giải phóng này không- rồi chỉ vào tôi- có thích thì cho đấy!”. Cô gái tưởng thật, nhìn tôi ghê quá chắc thích rồi làm tôi xấu hổ. Ông lại trêu, nếu thích thì cho bộ đội ở lại làm nương rẫy cùng, làm tôi càng xấu hổ hơn. Quả thực lần đầu tiên tôi có cảm giác vừa thích vừa run. …

img-4222-1742892966.jpeg

Chiều tối chúng tôi vào một binh trạm nghỉ. Ở đó bổ sung xăng dầu và lương thực thực phẩm. Đêm ngủ mắc võng trong nhà, tôi nói đùa với Điệp như cái chuồng trâu ngoài bắc. Nhà khoét vào vách đồi, trên có các xà ngang để làm chỗ mắc võng ngủ. Đang tuổi trẻ, đi mệt nằm lăn ra ngủ luôn. Lái xe miễn gác chỉ có liên lạc và thông tin chia nhau gác mà thôi. Đi mãi theo đường 14, một tối đến một chân dốc khá cao, mấy thủ trưởng mở bản đồ ra xem thì phát hiện ra đã vào sâu trong đất Quảng Đà (Quảng Nam Đà Nẵng). Một thủ trưởng nói: “Vùng này chưa giải phóng, lạc rồi, quay ra thôi!”. Tôi vội vàng ngồi lái như nằm xoài ra ngoài quay về phía sau lùi một mạch lên tận đỉnh dốc rồi mới dám quay đầu xe. Đêm trăng sáng mờ mờ, chạy khỏang 1-2 tiếng nữa thì đến vị trí nghỉ…

 

PGS.TS Đàm Khải Hoàn nguyên trung sỹ lái xe BTL Thiết giáp