Cự Đà: "bảo tàng sống" về kiến trúc làng nghề ven đô

Thảo Huyền

Làng cổ Cự Đà, xã Cự Khê, huyện Thanh Oai, Tp. Hà Nội là một "bảo tàng sống" về kiến trúc làng nghề ven đô.

Theo cụ Vũ Văn Thân (87 tuổi) người làng Cự Đà thì những tài liệu khảo cứu lịch sử và gia phả các dòng họ ở đây cho thấy làng đã hình thành từ 4 thế kỷ trước do các hoàng thân trong gia tộc chúa Trịnh khởi lập. Sau đó, các nhà tư sản tài ba như Cự Doanh, Cự Chân, Cự Phát… (chủ những xưởng dệt, nhà máy, tiệm buôn, hãng vận tải lớn của Hà Nội giai đoạn 1920-1940) đã thổi hồn kiến trúc Pháp vào ngôi làng này.

Người dân tự hào về làng Cự Đà đến nỗi khi ra Hà Nội lập hiệu, tạo được uy tín, tất cả đều lấy tên làng ghép với tên mình. “Những nhà tư sản nổi tiếng của Hà Nội thời ấy mà có tên bắt đầu bằng chữ Cự là người ta biết ngay quê ở làng Cự Đà chúng tôi” - cụ Thân giải thích.


Làng cổ Cự Đà là một điểm đến du lịch Hà Nội dành cho những ai yêu thích tìm hiểu kiến trúc làng nghề truyền thống. Ảnh: Khánh Long/VNP

Vẻ đẹp cổ kính của ngôi làng cổ Cự Đà. Ảnh: Phong Thu/VNP


Ngôi nhà mang nét kiến trúc Pháp, được xây dưng vào đầu thế kỷ 20, hài hòa với phong cách nhà truyền thống ở làng cổ Cự Đà. Ảnh: Công Đạt/VNP


Những bức tường nhuốm màu thời gian ở làng Cự Đà. Ảnh: Khánh Long/VNP

Con ngõ nhỏ ở làng cổ Cự Đà. Ảnh: Phong Thu/VNP


Trải qua bao thăng trầm của thời gian, bao biến cố của lịch sử, làng cổ Cự Đà dường như vẫn giữ được nét vẹn nguyên thuở ban đầu.
Với các ngôi nhà được thiết kế theo nét kiến trúc đặc trưng là nhà ngói 3 gian, 5 gian của vùng đồng bằng Bắc Bộ… Ảnh: Khánh Long/VNP


Một trong số ít cổng xóm còn sót lại ở làng cổ Cự Đà. Ảnh: Khánh Long/VNP


Xưa, bến sông Nhuệ là nơi buôn bán tấp nập, dân làng Cự Đà dựng hai cột trên đó có con cóc đá đội đèn để thuyền bè biết lối cập bến. Ảnh: Khánh Long


Cầu kì và tinh tế, những đường nét chạm khắc hoa văn kiến trúc Pháp xen lẫn những họa tiết mang dấu ấn làng Việt
cho thấy bàn tay tài hoa của những người thợ xưa ở làng Cự Đà. Ảnh: Khánh Long/VNP


“Ngày xưa xóm nào cũng có cổng xóm, bây giờ chỉ còn khoảng 3-4 cái. Ngày xưa chỉ có trâu với người đi thì cổng thấp lắm, bây giờ phát triển rồi thì phải nâng lên tầm 80cm nên người ta phải phá bỏ làm lại” - ông Vũ Văn Bằng, cựu Trưởng Ban văn hóa xã cho biết.  Ảnh: Công Đạt/VNP



Xen kẽ giữa những ngôi nhà cao tầng, những bức tường sơn mới là sự trầm lắng của những bức tường cổ nhuốm màu rêu phong ở làng cổ Cự Đà. Ảnh: Công Đạt/VNP


Trải qua bao thăng trầm của thời gian, bao biến cố của lịch sử, làng cổ Cự Đà dường như vẫn giữ được nhiều nét vẹn nguyên thuở ban đầu.
Với các ngôi nhà được thiết kế theo lối kiến trúc đặc trưng là nhà ngói 3 gian, 5 gian của vùng đồng bằng Bắc Bộ… Ảnh: Khánh Long

Nhịp sống ở làng cổ Cự Đà. Ảnh: Phong Thu/VNP


Theo thống kê của UBND huyện Thanh Oai, làng cổ Cự Đà hiện còn giữ được 51 căn nhà được xây dựng theo kiểu nhà cổ
vùng đồng bằng Bắc Bộ cách đây khoảng 200 năm. Ảnh: Khánh Long/VNP



Nhắc về làng Cự Đà là nghĩ ngay đến nghề làm miến dong truyền thống. Miến Cự Đà làm bằng bột dong riềng, được tráng thành từng bánh hấp chín rồi đem phơi.
Miến Cự Đà có đặc điểm rất dễ nhận là thường có màu vàng óng, đều tăm tắp ngon nức tiếng bởi độ ngon, dai và mùi thơm đặt trưng khó nơi nào có được.
Ảnh: Khánh Long/VNP

Nếu như làng cổ Đường Lâm nổi tiếng nhờ kiến trúc nhà kiểu nông thôn “ba gian hai chái” bằng vật liệu đá ong của vùng cận trung du thì Cự Đà mang phong cách làng nghề ven đô, ven sông điển hình theo kiến trúc Pháp pha trộn với kiểu nhà Việt cổ truyền thống. Thời vàng son, làng Cự Đà từng có cả trăm ngôi nhà cổ. Thế nhưng, hiện nay chỉ còn lưu giữ được khoảng 50 ngôi nhà có tuổi đời hàng trăm năm mang lối kiến trúc độc và lạ. Với thiết kế 2 tầng, có ban công, mang phong cách phương Tây nhưng nhiều ngôi nhà trong làng lại có mái hiên vút cong như mái đình. Ngoài hệ thống “nhà Tây” như cách gọi ở đây, người Cự Đà dù thành danh, giàu có vẫn giữ những ngôi nhà ba gian bằng gỗ lợp ngói ta, có sân lát gạch.
“Điều lạ lùng là phong cách Pháp cổ điển không hề đối lập với phong cách của những ngôi nhà truyền thống của cư dân nông nghiệp. Trái lại, nó tạo ra một kiểu kiến trúc không giống bất cứ ngôi làng nào trên đất nước Việt Nam” - cụ Vũ Văn Thân nhận xét.

Đi dọc các con đường từ đình làng tỏa về các thôn, xóm và ngõ của làng, người ta vẫn nhận ra được quy hoạch “xương cá” phổ biến. Trong làng vẫn giữ được một số con đường gạch lát nghiêng, nhiều con ngõ vẫn còn cổng. Những người cao tuổi ở Cự Đà kể lại trước đây, cứ đến 21 giờ, các cổng ngõ được khóa lại. Lúc này, các đội trường tuần thay phiên nhau trực để giữ trật tự, chống nạn trộm cắp.

Nhà giáo Trịnh Cơ, một trong những hậu duệ của dòng họ Trịnh khởi lập làng Cự Đà, cho biết: “Cự Đà trước đây là đất học, đất phát. Nhiều người thành đạt, học hành giỏi giang hiếm có đã giúp Cự Đà trở thành ngôi làng địa linh nhân kiệt. Cho đến tận bây giờ, truyền thống hiếu học của con em làng Cự Đà vẫn cứ là một giá trị bất biến tồn tại dưới từng nếp nhà”.

Dân gian có câu “tương Cự Đà, cà Khúc Thủy”, ngụ ý nghề làm tương ở Cự Đà nổi tiếng trong các vùng quê, còn cà trồng ở Khúc Thủy cũng vang danh. Giờ ở Cự Đà không chỉ làm tương, mà nghề làm miến dong cũng vang danh đất Hà thành./.